N
hìn tấm ảnh của thằng bạn đưa lên facebook với chú thích: “Ngày ni nhà có việc” - làm tôi nhớ cái hồi còn nhỏ, thỉnh thoảng được ba giao nhiệm vụ đi mời kỵ. Ở quê, thường nhà mô kỵ người ta hay nói chệch ra là nhà hôm nay “có việc”...
Cứ mỗi lần nhà tôi có kỵ, buổi chiều đặt lễ cúng thì buổi sáng mạ đi chợ mua mấy loại thực phẩm, rau ráng cần thiết từ bún khô, nấm mèo, các loại quả như cà chua, cà rốt, su bắp, su le, và tất nhiên không thể thiếu mấy cân thịt heo mông hoặc ba chỉ; còn vịt gà thì đã có sẵn trong nhà. Ba thì trang trí bàn thờ gia tiên, quét dọn nhà cửa rồi ghi danh sách khách mời. Và tôi luôn được giao nhiệm vụ đi mời người quen ăn kỵ.
Tôi vẫn còn nhớ cái cảm giác đi mời kỵ vừa vui lại vừa lo. Mời hàng xóm thì đi bộ, mời bà con họ hàng khác xóm trong làng thì đạp xe. Áo quần phải chỉnh tề. Tới gặp gia chủ phải vòng tay lễ phép thưa: “Dạ ngày ni nhà con có việc; ba con mời ôn (hay chú, bác) ba giờ chiều tới uống với nhà con ly rượu...” Gia chủ thường là vui vẻ nhận lời nhưng cũng có khi bận việc chi đó thì nói: “Về nói với ba con là ôn (hay bác, chú) xin kiếu.” Cái từ “kiếu” này hình như chỉ được dùng trong ngữ cảnh là đi ăn kỵ mà thôi… Mỗi lần tôi về thông báo lại cho ba tôi biết có ai đó “kiếu” thì ba tôi chợt nhớ ra là chắc người đó bận đi ăn kỵ nhà khác chẳng hạn...
Lại có chuyện vui quanh chuyện mời kỵ ở quê tôi. Đó là chuyện có một chú nọ trong làng tính tình rất nghịch ngợm. Thỉnh thoảng khi nhà hàng xóm có kỵ to là chú tự mình vận áo dài khăn đóng đi mời quanh làng. Đến giờ, chủ nhà tá hỏa tam tinh khi thấy một số vị khách không có trong danh sách mời mà lại tới ăn kỵ. Thôi thì đã tới rồi nên mời vô mâm uống ly rượu. Sau tra hỏi, biết được chủ nhân của trò đùa là ai thì cũng chỉ cười trừ thôi; mà rứa lại sinh hay, người làng có dịp kết thân hơn.
Ở quê tôi có câu: “Sướng nhất ăn giỗ (kỵ), khổ nhất đi tranh.” Thiệt tình chừ tôi vẫn thấy ăn kỵ là ngon nhất, thấm tháp nhất. Những món kho, xào, chiên, luộc… được bày biện trên những chiếc dĩa con cua be bé, gắp mấy nhúm đũa là hết; có mấy món chỉ bày sáu miếng trên dĩa dành cho sáu người như: chả, tôm rim, thịt ram… Hồi nhỏ, tôi hỏi mạ răng không dọn trên mấy cái dĩa, cái tô to hơn và được mạ giải thích, kỵ là để tổ tiên ông bà đã khuất thụ hưởng nên món chi cũng nhỏ nhỏ như rứa. Sau này ngồi với một nhà nghiên cứu Huế, được anh cho biết một trong những nét đặc sắc của xứ Huế từ phố thị đến các vùng quê chính là những mâm cúng giỗ. Mâm kỵ ở Huế được bày biện rất công phu, cầu kỳ, lại có rất nhiều món, và đặc biệt là chỉ dọn lên những chiếc dĩa, chiếc tô nhỏ, trước là để bày cho được nhiều món từ món canh, món xào, món kho, món chiên, món luộc… Nhưng quan trọng hơn thì mâm giỗ trước hết là “cúng” hướng về người cõi âm thụ hưởng, người cõi dương chỉ được “cấp” thụ hưởng sau… Rứa mới có từ ghép “cúng cấp”!
Lại nhớ dịp tháng 3 âm lịch năm Canh Tý, là ngày húy nhật ông cố tôi. Nếu không có dịch covid, không cách ly xã hội thì hôm đó nhằm ngày thứ Bảy, tôi sẽ chạy xe về làng thắp nén hương lên bàn thờ gia tiên.
Hồi trước, ngày kỵ này, mấy mụ cô của tôi rồi cả mấy o, mấy chú con của các mụ, người xách con gà con vịt, người mua cân thịt ngoài chợ vô để cùng cúng cho ôn ngoại. Tôi nhớ cứ khi mô hào soạn xong mâm cơm, ba tôi thường sai tôi chạy lên nhà ông cố đầu xóm mời ôn xuống quảy cơm. Ôn cố là ông nội chú của ba tôi, cũng là tộc trưởng họ Lê Phi, mặc chiếc áo địa màu xanh, đội thêm chiếc khăn đóng cúng trước, sau đó mới đến ba tôi và mấy mụ...
Mà mấy từ cúng quảy kỵ giỗ cũng là đồng nghĩa hoặc gần nghĩa với nhau, nhưng lại có đôi chút hơi khác. Ví như có nhà mô đó nói rằng: Năm ni nhà tui chỉ làm mâm sơ sơ quảy ôn thôi thì có thể hiểu là kỵ nhỏ, bó hẹp trong gia đình, không mời bà con họ hàng chi cả.
Hồi trước quê tôi còn có kỵ xôi nữa. Kỵ xôi không có nhiều món kho xào như kỵ cơm mà chỉ nấu xôi, mấy dĩa thịt heo luộc, mấy dĩa gà hoặc vịt và thêm tô canh xáo măng. Cũng có thể hiểu kỵ xôi là kỵ nhỏ cốt để “phố” cho ôn mệ trong ngày húy nhật nên không bày biện chi nhiều… Tôi chừ vẫn nhớ từng ngày kỵ một của nhà tôi. Có tháng tới mấy cái kỵ liền...
Trẻ con làng tôi có câu: vui nhứt là Tết nhì là lụt. Đó là nói chuyện chơi; còn nói về chuyện ăn uống thì phải là: vui nhứt là Tết nhì là kỵ. Cứ nhớ mãi cảnh thằng Bỏm em trai tôi với thằng Bệt cùng xóm cầm cái thanh tre, lái chiếc xe tự chế làm bằng chiếc vành xe đạp đã hư chạy quay tròn từ đầu xóm xuống cuối xóm và nói oang oang -Loa loa loa loa… ngày ni nhà tui kỵ - mỗi khi nhà tôi có kỵ...
Mỗi năm, một gia đình ở nông thôn xứ Huế có ít nhất cũng vài ba cái kỵ lớn, kỵ nhỏ. Kỵ nhỏ thì chỉ vài con gà, con vịt, làm một đến hai mâm mời bà con gần gũi trong gia tộc; kỵ to thì mổ heo, gà, vịt đến cả chục mâm mời cả bà con, hàng xóm, bạn bè, thông gia…
Nhớ một lần nhà ông Tời - hàng xóm của nhà tôi - kỵ to lắm. Đến giờ trong nhà lên mâm cúng, chú Oi con út ông Tời kiếm mô ra một sợi dây bẹ chuối to cột ngang cây xoài, đến bụi tre trước ngõ nhà rồi nói: “Ngày ni nhà tau kỵ, đứa mô có bà con thân thiết với nhà tau thì cho vô, mấy đứa khác không được vô!”
Tôi thuộc diện bà con nên được vô nhà chú Oi ăn kỵ. Có mấy đứa không được vô vì không phải bà con hoặc có bà con nhưng chú Oi không ưa chơi. Thế mà tụi nó không chịu đi, cứ quyết tâm đứng lẩn vẩn trước cửa ngõ nhà chú Oi chờ cơ hội. Chú Oi đứng chống nạnh một chập cũng mỏi chân mỏi tay, với lại mâm cỗ đã dọn ra trước hiên rồi nên bỏ vô nhà.
Người lớn vô mâm trong nhà, trẻ con cũng được lót chiếu trước hiên ngồi hai dãy hò khoan. Mới cầm đũa lên, thấy chú Oi đứng dậy chỉ ra trước sân: “Ê mấy đứa bây tau đã nói không bà con thì về đi, tới đây ăn chực nhà tau à?” Thì ra mấy đứa thuộc diện bị loại đã kịp có mặt đúng giờ hoàng đạo. Tất nhiên, tất cả đều được người lớn kêu vô ngồi chung mâm con nít con nôi cho vui. Chú Oi miệng thì nói rứa chứ lòng dạ cũng chẳng phải là hẹp hòi chi. Chú vừa khới cái cẳng gà vừa nói: “Mấy đứa bây ăn chực nhà tau thì mai mốt nhà đứa mô kỵ nhớ kêu tau nghe!”
Ngày kỵ là ngày để con cháu nhớ về người thân đã khuất, cũng là thời gian và không gian để con cháu, họ hàng, xóm giềng, bè bạn quây quần trong tình thân. Cũng vì thế mâm kỵ bao giờ cũng được bày biện với những món ăn ngon nhất của làng quê. Thịt heo thì phải là thịt mông nhiều nạc, ít mỡ hoặc là thịt ba chỉ. Vịt thì phải là vịt cỏ, vịt bầu hoặc vịt xiêm nuôi ở ao nhà. Gà thì phải là gà kiến thả vườn… Nhưng mâm kỵ không phải giản đơn như mâm chạp họ hay mâm liên hoan đội đoàn là trên thịt dưới xôi, mà các món ăn phải tinh tế hơn, cầu kỳ hơn, được bày biện trên những chiếc dĩa nhỏ đẹp mắt. Mâm kỵ ở làng quê xứng đáng là một tác phẩm ẩm thực dân gian với đủ màu sắc, hương vị…
Ngoài món thịt heo luộc chấm nước mắm ớt, thịt vịt luộc chấm nước mắm gừng, gà bóp rau răm; còn phải thêm mấy món canh, món xào, món chiên. Canh thì có canh bún nấu lòng gà vịt cộng thêm tô măng xáo xương gà, xương vịt. Món xào thì nhiều hơn từ mướp đắng, măng, su le xào thịt; da trâu khô xào với giá đậu rồi có cả món bột lọc nhồi, viên thành từng con xào với lá ném và mỡ. Món chiên thì cá thu hoặc cá chim cắt lát chiên, tôm chiên, thịt sườn chiên. Rồi thêm dĩa rau sống, mấy trái ớt xanh đỏ… Cứ thế từng tầng thức ăn xếp trên đĩa con rồng, con cua nho nhỏ và ở giữa là mấy tô canh được đặt lên mâm cúng. Mà xếp mâm cúng cho đẹp không phải dễ, món chi đặt ở giữa mâm, món chi đặt hai bên mâm, làm răng cho đều, cho vừa mắt của mấy ôn, mấy mệ phải là mấy chú lớn tuổi có kinh nghiệm về kỵ giỗ… Đặc biệt, không được quên chén nước mắm, nếu lỡ quên thì coi như mâm kỵ chưa hào soạn…
Tôi thấy oai phong nhất là mấy cụ già ở quê đi ăn kỵ, khi mô cũng khăn vành, áo thụng, đầu che dù. Tới nơi, chủ nhà phải lo thưa gửi đàng hoàng, ngồi mâm sáu người giữa nhà, đúng vị trí với vai vế để mời ngồi trong, ngồi ngoài. Trước khi các cụ cầm đũa, chủ nhà phải thưa trình thiệt lễ phép, cung kính. Xong bữa ăn, phải múc sẵn một thau nước để các cụ rửa tay rồi mời nước chè xanh…
Ở quê tôi có lệ rất hay, đó là mỗi lần nhà có kỵ, khi mô chủ nhà cũng để lại vài ba dĩa chi đó để bưng cho nhà hàng xóm hay mấy người già yếu thân thuộc. Hồi nhỏ cứ mỗi lần đi kỵ, nhìn người lớn ngồi mâm trên, tôi lại ao ước răng cho mau lớn để được ngồi vô mâm; chừ lớn rồi, nhìn mấy đứa nhỏ ở quê ngồi hai hàng trước hiên vừa ăn vừa cười nói, cãi nhau, tự nhiên ưa nhỏ lại để được đi “ăn chực” kỵ như hồi nào...