T
hằng bạn về làng ăn kỵ, đưa lên facebook tấm ảnh chụp món chả trứng lụa, một món ăn mà người dân những vùng quê ở Huế thường chế biến để bày trong mâm cỗ. Tôi nhìn ảnh và cơn thèm nổi lên, cũng không quên trách vui bạn bằng cái câu mà hồi nhỏ hay nghe mấy đứa con nít trong làng đọc chơi: “Vợ chồng chi bây mà tệ/ Kỵ mệ mà không mời tau.”
Chừng như hiểu tôi đang nhớ những món quê nhà nên bạn gửi cho tôi cái ảnh qua tin nhắn và hỏi: “Có cảm hứng chi khôn?” Thằng ni tệ thiệt! Trời đang nóng khét lẹt gần 40 độ C như rứa mà lại gửi ảnh cái cối, cái chày có thêm màu đỏ của giã ớt chín vừa mới giã xong đang nằm trong lòng cối đá, một vật dụng quen thuộc ở làng. Nhìn cái ảnh tôi lại càng thêm nóng, mồ hôi tứa ra ròng ròng, nhưng thực tình là cái ảnh của bạn đã làm tôi xúc động.
Những trưa hè đứng gió, trời nóng như đổ lửa, bờ tre se lá lại đứng im thin thít, trâu nằm le lưỡi, chỉ còn nghe con cu cườm thả những âm thanh quen thuộc “cúc, cù, cu, cu...” hòa cùng âm thanh giã ớt đều đặn “thình thịch, thình thịch” vang lên đâu đó của năm xưa lại hiện về nguyên vẹn, tươi rói trong tôi...
Làng tôi, mỗi xóm đều có vài ba cái cối làm bằng đá tổ ong hoặc đá mịn. Tất nhiên, những cái cối này phải được mua từ vùng núi về. Cái cối để nghiêng bên một góc cây cổ thụ, bên cạnh dựng hai cái chày bằng gỗ tốt. Ở xóm Kế của tôi có cái cối nhà ôn Thủy đầu xóm, cối nhà chú Thể, cối nhà ôn Tời ở giữa xóm hay cối nhà chú Phương ở cuối xóm. Nhà tôi không có cối nên ba mạ thường mang ớt chín đi giã ở nhà ôn Tời, thỉnh thoảng cũng giã ớt ở nhà ôn Thủy...
Bởi cối không phải nhà mô cũng có nên đến mùa ớt chín thì mấy gia đình trong xóm phải luân phiên nhau mà giã ớt. Thường giã ớt từ khoảng mười giờ trưa đến tầm ba giờ chiều. Đó là thời gian trời nắng to, ớt tươi chín giã xong một lần phải đem phơi cho khô, rồi mới giã tiếp. Lặp lại ba, bốn lượt như thế mới có được ớt bột cho vô bao bì, sáng mai mang ra chợ bán hoặc trữ trong hũ ăn dần. Có nhiều lúc bận việc, giã cho dập trái ớt xong phơi khô, khi mô có thời gian mới giã tiếp.
Giã ớt là công việc quá nặng nhọc, phải có sức khỏe và quen chịu đựng hơi cay của ớt mới làm được. Khi giã ớt phải hạn chế nói cười, không thì ớt bay vô miệng sẽ gây sặc. Con nít tất nhiên không ôm nổi cái chày, nói chi đến giã ớt. Nhưng con nít cũng có việc làm, đó là dùng cái chổi rèn để lùa ớt tràn ra thành miệng xuống lòng cối cho người lớn giã.
Dù đã trang bị khăn bịt mặt, nhưng hơi ớt cay vẫn bắn vào mắt, vào mũi, nên khi giã ớt, ai nấy nước mắt chảy ròng, hắt hơi liên tục. Mà không chỉ người trực tiếp giã ớt mới bị hắt hơi. Gió mang hơi cay của ớt bay ra chung quanh, nên mấy đứa con nít đứng chơi gần chỗ giã ớt cũng bị ảnh hưởng mà hắt hơi liên tục...
Nhưng người nông dân quê tôi cũng quen dần với cái cay. Mùa ớt chín lại đúng vào những ngày nắng nóng, khi đó mùa gặt lúa cũng đang cận kề nên phải tranh thủ hái ớt nhanh, mang đi giã không thì ớt chín quá sẽ rụng, hoặc lỡ gặp một cơn mưa lớn bất chừng là ớt bị hư hết.
Trời có nóng đến mấy chục độ đi nữa thì những buổi trưa thanh vắng, tiếng chày giã ớt vẫn cứ đều đặn “thình thịch, thình thịch” theo nhịp tay của chồng của vợ. Bây chừ, nhìn tấm ảnh bạn chụp cái cối, cái chày giã ớt, tôi lại nhớ ba, nhớ mạ. Tiếng chày giã ớt của ba khi mô cũng mạnh hơn tiếng chày của mạ. Có điều, dù không có sức mạnh như đàn ông nhưng mạ vẫn bền bỉ giã ớt như thế mà không bao giờ thở than một tiếng nào.
Có lẽ vì quen với cái vị cay của ớt từ nhỏ qua mấy cái cối ớt đỏ rực trong nắng hạ nên tôi đã trở thành một “tín đồ” của vị cay trái ớt. Mà không chỉ riêng tôi, nhiều người Huế ăn cay rất giỏi cũng bởi vì họ đã được làm quen với hương vị cay nồng của những cối ớt mùa hè…