C
ó lần đi tác nghiệp dịp cuối năm ở một làng quê ven biển. Qua câu chuyện với mấy Việt kiều về quê ăn Tết, mới biết rằng món quà mà họ quý nhất từ quê chính là hột ném: “Đáng lý ra là có thêm nước mắm nữa, nhưng nước mắm mang lên máy bay đường dài thì phiền phức lắm nên hột ném là số một…” Cũng theo lời kể của họ thì kho nấu món chi, chỉ đập dập mấy hột ném nêm vô rứa là hương vị của quê nhà cứ sực nức trong món ăn.
Cây ném rất dễ trồng, nhất là ở vùng đất cát. Hằng năm, cứ qua tiết hăm ba tháng 10 là nông dân các làng quê xứ Huế bắt đầu trỉa hột ném. Làng tôi, gần như nhà mô cũng trồng ném; nhà trồng nhiều thì cả mấy sào, nhà trồng ít cũng phải một hai vồng trong vườn đủ để ăn quanh năm.
Ném là loài cây dễ tính. Chỉ cần lên vồng, rải hột giống xuống đất đã tơi xốp, rồi ủ ít phân mục và rơm là xong. Chừng một tuần lễ là cây ném hé mầm và nhanh chóng phát triển xanh cả vườn, để rồi khoảng hơn một tháng sau là cho thu hoạch. Sức chịu đựng của ném cũng bền bỉ lắm. Mưa to gió lớn có làm rạp cả cây xuống đất rồi thì ném vẫn vươn mình xanh tốt. Hồi trước, cây ném chủ yếu được trồng ở đất vườn hay đất ruộng, là đất thịt pha cát. Sau này, nông dân các làng vùng đất cát đã mạnh dạn đưa cây ném lên trồng trên độn cát với số lượng lớn. Bây chừ thì cây ném trên cát đã trở thành cây trồng hái ra tiền của người nông dân quê tôi…
Nhớ những ngày đông lạnh. Những khi vắng chợ, mạ vẫn thường chế biến hai món ăn: là ruốc kho ném hoặc canh ruốc nấu với lá ném. Nói là món tạm đỡ đần mùa lạnh, nhưng đó là những món ăn có sẵn trong vườn nhà lại ngon cơm. Nói chung là ném phải có mặt trong tất cả món ăn ở làng tôi. Từ nấu canh, kho cá thịt, rim mắm đều phải có vị ném vô mới thấy đủ vị đủ màu. Có người ghiền ném đến mức luộc cả cây và củ ném tươi, chấm với nước mắm ớt ăn ngon lành…
Sau này, dân nhậu quê tôi có thêm món khoái khẩu là lẩu cá khoai nấu với ném. Cũng không biết món lẩu này ngon nhờ vào cá khoai hay lá ném, hay nói đúng hơn là sự bổ sung cho nhau giữa vị biển và hương đồng.
Hồi nhỏ, mỗi lần mạ đưa em bé mới sinh đi đâu khỏi nhà, bà nội hay lấy mấy củ ném đâm ra rồi trộn với dầu tràm, xoa lên đầu và lòng hai bàn tay, bàn chân của em bé, nói là để tránh gió máy. Nhớ một lần tôi bị cảm sốt li bì, mụ Sanh ở xóm trên đến chích lễ cho tôi. Chích xong mũi mô là mụ dùng ném xoa vô mũi đó. Chích lễ xong mụ còn dặn: “Nhớ nấu cho thằng cu chén cháo ném ăn là sáng mai đi chơi được rồi!” Hồi đó, tôi phải nhắm mắt bịt mũi để nuốt cho xong chén chè ném giải cảm. Sau này thì tự nhiên ăn được chè ném và thấy cái vị của chè ném cũng thật dễ chịu lắm…