David Loogan pha cà phê khi Elizabeth tới nhà anh tối Chủ nhật. Anh mời cô dùng cà phê khi cô ngồi xuống ghế sofa trong phòng khách, lưng quay về phía tường. Anh ngồi ở ghế quay lưng ra cửa sổ.
Một ngọn đèn đứng đặt gần chiếc ghế. Ngoài phố, màn đêm dần buông xuống. Qua cửa sổ, Elizabeth có thể nhìn thấy một cây đu trồng trên bãi cỏ trước nhà. Một vài chiếc lá bướng bỉnh bám trụ trên cành. Cảnh tượng này quen thuộc một cách kì lạ. Trên bãi cỏ trước nhà cô cũng trồng một cây đu.
Cô chuyển sự chú ý sang Loogan và nhận thấy anh đang nhìn mình. Anh đã cạo râu nhẵn nhụi, mái tóc đỏ cắt gọn gàng, mặc một chiếc áo sơ mi và quần kaki. Anh trông có vẻ như một người có thể thích nghi với mọi hoàn cảnh. Có vứt ở đâu. Elizabeth nghĩ thầm, anh cũng có thể hòa nhập được: để anh ta làm việc trong văn phòng hoặc phòng thí nghiệm, hay ở công trường xây dựng nhảy vòng quanh với một dầm gỗ thăng bằng trên vai.
Cô lấy trong túi xách một cây bút và một cuốn sổ.
“Anh có cái tên đặc biệt thật đấy”, cô nói, “Loogan”.
“Đúng vậy“, anh nói.
“Nghe có vẻ giống tên Hà Lan nhỉ?”
“Cũng có thể.”
“Những người mà tôi đã phỏng vấn”, cô nói, “có vẻ họ không biết nhiều về anh”.
“Thật à?”
“Thí dụ như Sandy Vogel, thư kí ở tòa soạn Gray Streets, đã gọi anh là một ẩn số.”
“Có lẽ tôi nên làm quen với Sandy nhiều hơn.”
“Laura Kristoll thì khác. Có vẻ cô ấy biết đôi điều về anh.”
Không ai chạm tới hai cốc cà phê trên bàn uống nước. Tay phải Loogan đặt trên đầu gối. Anh nhấc tay lên và ngắm nhìn nó trong ánh sáng từ cây đèn.
“Tôi chưa từng thấy ai tên là Waishkey bao giờ”, anh nói, “Tên kiểu gì mà lạ vậy?”.
“Có lẽ là tên Hà Lan đấy”, Elizabeth nói cụt lủn, “Anh đã ở đâu tối qua?”.
“Tối qua à?”
“Là tôi tới đây để phỏng vấn anh đấy.”
“Tôi tới thăm Laura Kristoll”, sự chú ý của Loogan dồn vào bàn tay anh. Anh gập các ngón tay lại thành một nắm đấm.
“Thú vị thật”, Elizabeth nói, “Có chuyện gì với tay anh thế?”.
“Không có gì đâu. Tôi bị dằm gỗ đâm vào tay.”
“Có đau không?”
“Một chút thôi.”
“Tại sao anh lại bị thế?”
“Sáng nay tôi tháo một khung ảnh.”
“Tại sao anh lại tháo khung ảnh sáng nay?”
“Không quan trọng”, Loogan nói, “Tôi đoán rằng có nhiều thứ khác cô đang muốn hỏi tôi”.
“Trả lời tôi đi nào.”
Anh ngẩng lên nhìn bức ảnh đóng khung treo trên lò sưởi.
“Tom đã tặng tôi cái đó”, anh nói, “Sáng nay tôi tháo khung ảnh ra, rồi lại lắp vào như cũ”.
Bức ảnh chụp những cánh hoa và các mảnh giấy bên trên đống kính màu. Chúng gợi Elizabeth nhớ tới chuỗi vòng cô đang đeo trên cổ.
“Tại sao anh lại làm thế?”, cô hỏi.
“Hứng lên thì làm thôi. Tôi đang tìm kiếm một thứ.”
“Gì vậy?”
“Có lẽ là một lời nhắn. Tom mất rồi. Đây là thứ duy nhất từ anh ta mà tôi còn giữ.”
“Anh đoán trong khung ảnh có giấu một mẩu giấy à?”
“Tôi đã nói là vô lý lắm mà.”
“Anh có tìm thấy mẩu giấy nào không?”
“Tôi chỉ tìm thấy cái dằm trên tay này thôi.”
“Anh phải nhổ nó ra đi chứ.”
“Quanh đây chẳng có cái nhíp nào.”
Không nói một lời, Elizabeth lục túi xách để lấy nhíp. Cô đi qua chỗ Loogan đang ngồi và cúi xuống bên bàn tay mở rộng của anh. Trong ánh đèn đứng, cô dùng nhíp gắp cái dằm gỗ trong tay anh. Một lúc sau, cô tóm được nó và nhổ ra ngoài.
Loogan xoa tay. “Cảm ơn.”
Cô quay lại ghế sofa và bỏ chiếc nhíp vào túi xách. Một mùi hương vương vấn trong tâm trí cô, mùi xà phòng và làn da được kì cọ sạch sẽ.
“Tối qua anh đã tới chỗ Laura Kristoll”, cô nói, “ Anh đã ở đó bao lâu?”.
“Khoảng một tiếng hay chín mươi phút gì đó”, anh nói.
“Hai người nói chuyện gì với nhau?”
“Chúng tôi nói rất ít. Cô ấy đã khóc nhiều.”
“Hẳn là cô ấy đã nói với anh chồng mình không tự sát. Anh ta đã bị giết.”
“Đúng vậy.”
“Thế mà sáng nay anh lại đi tìm một lời nhắn từ anh ta.”
“Tôi đâu có nói những gì mình làm là hợp lý.”
Elizabeth nhìn lại tấm ảnh treo trên lò sưởi một lần nữa. “Anh ta tặng anh tấm ảnh này khi nào?”
“Cách đây hơn một tuần.”
“Nhân dịp gì thế?”
“Chẳng nhân dịp gì cả. Đó là một món kỉ niệm tình bạn giữa chúng tôi.”
“Hai người là bạn à?”
“Phải.”
“Vậy mà anh lại ngủ với vợ anh ấy.”
Loogan cười khoan thai. “Cô nói thẳng đấy.”
“Có người lại cho rằng tôi khéo léo cơ. Laura đã tới đây vào ngày thứ Sáu. Hai người đã ở đây cùng nhau.”
“Đúng vậy”, Loogan đáp, “Cô ấy tới đây vào khoảng năm giờ rưỡi, về tầm bảy giờ hai mươi phút”.
“Tom Kristoll chết cũng vào bảy giờ hai mươi phút”, Elizabeth nói nhỏ, “Vậy anh không đẩy anh ta khỏi cửa sổ”.
“Đúng là không phải tôi.”
“Tôi biết. Hôm qua tôi cũng chưa chắc chắn lắm. Khi đó tôi mới chỉ được nghe từ Laura. Nhưng chúng tôi cũng đã nghe hộp thư thoại của Tom. Anh đã gọi điện cho anh ta tối thứ Sáu từ điện thoại ở nhà. Anh để lại tin nhắn vào lúc bảy giờ hai mươi mốt phút.”
Loogan nhăn mặt. “Tôi quên hẳn chuyện đó rồi.”
“Tôi tin là anh nói thật. Một người có chuyện khuất tất sẽ bám chặt lấy chứng cứ ngoại phạm của mình”, Elizabeth dùng ngón cái lật các trang của cuốn sổ, “Trong tin nhắn gửi cho Tom, anh nói là đang trên đường tới đó. Anh có việc cần gặp anh ta à?”.
“Anh ấy đã mời tôi tới văn phòng uống một chút. Chúng tôi hẹn nhau lúc bảy giờ.”
“Nhưng lúc bảy giờ anh vẫn đang ở nhà, cùng với Laura. Anh có biết trước là cô ấy sẽ đến đây không?”
“Không. Cô ấy chỉ tạt qua thôi.”
“Sau đó anh không để ý đến thời gian nữa à?”
“Tôi ngủ quên mất.”
“Thật không?”
“Chúng tôi nói chuyện, sau đó ngồi trên ghế sofa rồi tôi ngủ quên.”
“Lúc anh tỉnh dậy thì sao?”
“Khi đó Laura chuẩn bị về. Cô ấy đã mặc sẵn áo khoác. Tôi định lái xe tới chỗ Tom nhưng khi ra khỏi nhà, tôi thấy xe mình đã bị kẻ nào đó phá hoại. Hai lốp xe bị đâm thủng và cửa xe bị cào xước bằng chìa khóa.”
“Tôi hiểu, Loogan à”, Elizabeth nói, “Khi thấy xe mình bị phá hỏng, anh có đoán ai đã gây ra chuyện đó không?”.
“Chắc là bọn trẻ hàng xóm. Còn ai vào đây được nữa?”
“Vạch bằng chìa khóa là trò mà những cô gái bị phụ bạc thường làm với xe ô tô của kẻ phản bội họ”, Elizabeth nói, “Anh vừa mới chia tay với Laura. Liệu anh có nghi ngờ cô ta là người phá xe ô tô của mình không?”.
“Tôi đã nghĩ tới chuyện đó, trong khoảng mười giây.”
“Có gì bất hợp lý đâu? Khi anh tỉnh giấc thì cô ta đã mặc sẵn áo khoác rồi. Có thể trước đó cô ấy đã ra ngoài và rồi quay trở vào nhà.”
“Nếu cô ấy mới mười tám tuổi, có thể tôi sẽ tin chuyện đó”, Loogan nói, “hay nếu cô ấy là người đồng bóng, không có học thức. Chẳng lẽ cô thực sự tin rằng cô ấy đã làm vậy à?”.
“Không, nhưng tôi không tin đó là do bọn trẻ hàng xóm”, Elizabeth nói, tay viết trên một trang mới. “Vậy xe của anh không đi được nữa. Sau đó anh làm gì?”
“Tôi đi bộ.”
“Lúc đó anh đã muộn giờ rồi, mà tối hôm đó trời rất lạnh. Anh thừa biết bình thường Tom đã về nhà rồi. Sao không hẹn dịp khác?”
“Chỗ đó chỉ cách đây có mười hai tòa nhà. Khi tới phố Main, tôi thấy có chuyện. Lúc đó khoảng gần tám giờ. Tôi thấy xe cảnh sát, hàng rào. Tôi đi vào gần hết mức có thể. Cái xác được phủ một tấm ga, nhưng tôi ngờ rằng mình biết người đó. Rồi tôi thấy cửa sổ mở trên tầng sáu và thế là chẳng còn nghi ngờ gì nữa.”
Loogan cúi mặt. ”Tôi mượn điện thoại và gọi cho Laura nhưng không ai nhấc máy. Tôi bắt taxi đến nhà cô ấy. Nhưng lúc đó có người đã báo tin cho Laura rồi. Cô ấy đã tới hiện trường để nhận dạng nạn nhân.”
“Vậy là tối hôm đó hai người không gặp lại nhau?”
“Không.”
“Vậy sau cuộc gặp tối qua và được biết cái chết của chồng cô ấy không phải là một vụ tự sát, anh đã phản ứng thế nào?”
“Tôi không ngạc nhiên”, Loogan nói. “Tôi biết Tom không có ý định tự sát.”
“Anh ta có hài lòng với cuộc sống của mình không?”
“Tôi tin rằng anh ấy cũng khá thỏa mãn: một cuộc sống tuyệt vời, làm đúng công việc mà mình ưa thích.”
“Cuộc sống gia đình thì sao? Anh ấy có hài lòng về khoản đó không?”
“Anh ta chẳng tỏ vẻ gì bất mãn cả.”
“Nhưng anh cũng không cho rằng anh ấy hoàn toàn hạnh phúc phải không.”
Loogan hơi do dự, như thể đang tìm lời lẽ sao cho hợp lý. “Tom tỏ vẻ hối hận về một vài việc. Một lần anh ta đã nói với tôi ban đầu chẳng ai dự định làm biên tập viên cả. Đó là công việc mà anh ấy phải làm, nhưng nó không phải những gì anh ấy mơ ước từ hồi trẻ. Anh ấy muốn trở thành một nhà văn.”
Loogan ngừng lại và Elizabeth cất cuốn sổ vào túi xách. Cô đứng lên và đi tới chỗ cửa sổ, mắt nhìn ra cây đu và con phố.
Khi cô quay lại, Loogan đang đứng nhìn cô từ phía lò sưởi.
“Cô nghĩ rằng ai đã giết anh ấy?“, anh hỏi.
“Tôi phải hỏi anh câu đó mới đúng”, cô đáp.
Loogan lướt bàn tay trên mặt đá lò sưởi. “Hẳn là một người mà anh ấy quen biết. Hơn thế nữa, là một người mà anh ấy tin tưởng.”
“Tại sao thế?”
“Anh ấy đã bị đánh một cú phía sau đầu. Như vậy khi đó không hề có sự đề phòng. Anh ấy không cảm thấy mối đe dọa nào cả.”
“Nói tiếp đi”, Elizabeth nói.
“Tôi chỉ đoán mò thôi.”
“Anh suy luận tốt đấy chứ.”
“Người đó đủ sức khỏe để đưa cái xác qua cửa sổ. Hắn là một kẻ đầy tự tin và liều lĩnh. Bất kể là ai, hắn không thể hoàn toàn chắc chắc là không có ai chứng kiến việc đó - kiểu như ai đó dưới phố ngẩng lên nhìn đúng lúc ấy. Nhưng chuyện đó chẳng ngăn được hắn.”
“Tiếp tục đi.”
“Tên này đã từng vào văn phòng đó trước đây, biết hết đường đi lối lại trong tòa nhà”, Loogan nói, “Nếu có một xác chết trên vỉa hè, hẳn là cô không muốn đi ra bằng cửa chính. Chắc chắn hắn đã dùng lối đi cho nhân viên ở phía sau”.
“Anh đoán được hắn thoát ra bằng đường nào nữa cơ đấy. Hẳn là anh đã suy nghĩ rất nhiều về vụ này.”
“Nếu hắn quen biết Tom và biết lối đi trong tòa nhà, có lẽ hắn có quan hệ nào đó với tạp chí Gray Streets.”
“Chúng tôi có một danh sách những người liên quan tới tờ Gray Streets”, Elizabeth nói, “Sandy Vogel đã đưa nó cho tôi sáng nay. Cô ta đã chuẩn bị sẵn trước khi tôi yêu cầu. Tôi được biết là chính anh đã yêu cầu cô ta viết lại danh sách đó”.
“Trong đó nên có tên của các cây viết”, Loogan nói. “Thỉnh thoảng Tom cho phát hành các mẩu chuyện do tù nhân viết. Sau đó những tù nhân này được thả. Cũng đáng để tâm đấy chứ.”
“Đúng đấy”, Elizabeth nói.
“Tôi muốn hắn phải bị bắt”, Loogan nói nhỏ, “Đáng ra tôi phải ở đó, trong văn phòng lúc bảy giờ. Vậy mà tôi lại ngủ quên. Nếu tôi giữ đúng lời hứa, có lẽ chuyện này đã không xảy ra”.
Loogan cúi đầu và đôi mắt anh chìm trong bóng tối. “Nếu đây là một mẩu chuyện đăng trên tờ Gray Streets, tôi sẽ tự tay truy lùng kẻ giết người. Đó là trách nhiệm của tôi.”
“Đây không phải là truyện trên tờ Gray Streets, Loogan à.”
“Đây là nghĩa vụ của tôi. Tom là bạn tôi. Đáng ra tôi phải có mặt ở đó.”
Sáng thứ Hai, Elizabeth bàn bạc với Carter Shan. Trong phòng họp của Phòng Điều Tra, cô kể lại cho anh những gì thu thập được từ hai cuộc nói chuyện với Laura Kristoll và David Loogan.
“Giá mà họ không thừa nhận cuộc tình đó thì hay hơn”, Shan nói.
“Cả hai người đó đều gian xảo lắm”, Elizabeth nói.
“Nếu họ chối bỏ cuộc tình, ít ra chúng ta còn có cơ sở điều tra. Khi đó chúng ta sẽ giơ ảnh họ cho bồi bàn và nhân viên khách sạn xem.”
“Tôi biết anh thích làm việc đó thế nào mà.”
“Không gì dễ dàng hơn việc chứng minh một người đàn ông có tư tình với một phụ nữ. Nhưng thật là sai trái khi họ tự thừa nhận chuyện đó.”
“Chúng ta có thể bắt giữ họ”, Elizabeth nói, “Bỏ họ vào phòng kín, sau đó buộc họ tự thay đổi lời khai của mình”.
“Nhưng vẫn có khả năng họ là kẻ chủ mưu”, Shan nói, “Nếu muốn trừ khử Kristoll, họ hoàn toàn có thể thuê ai đó giết anh ta”.
“Nếu không tính đến chuyện thời gian, có lẽ tôi cũng tin vào giả thiết đó. Nếu một phụ nữ thuê ai đó giết chồng mình, cô ta biết chắc mình sẽ thuộc diện bị tình nghi. Cô ta cần có chứng cứ ngoại phạm. Laura Kristoll đang ở cùng với người tình vào thời điểm chồng cô ta bị giết - nếu là tôi thì sẽ không chọn chứng cứ ngoại phạm đó đâu.”
“Nếu Loogan thuê kẻ giết người thì sao?”, Shan nói, “Và Laura không biết chuyện đó”.
“Như thế còn bất hợp lý hơn”, Elizabeth nói, “Nếu anh thuê ai đó giết bạn mình, hẳn là anh không gọi điện cho anh ta và nói rằng mình đang trên đường tới đó. Nếu muốn tạo chứng cứ ngoại phạm, anh sẽ gọi điện cho bất kì ai ngoại trừ chính người mà mình muốn giết”.
Shan rà soát lại các sự việc trong đầu. “Có lẽ David Loogan là một tên tội phạm kì tài.”
“Tôi không nghĩ thế.”
“Hắn thuyết phục được cô rằng mình vô tội rồi à?”
“Tôi đâu có nói anh ta vô tội. Tôi chỉ thấy rằng vẫn còn nhiều điều anh ta chưa nói hết.”
“Vậy thì tóm hắn thôi. Tống hắn vào buồng kín.”
“Chưa được đâu”, Elizabeth nói, “Còn một số thứ tôi muốn tìm hiểu trước đã. Một tội ác có thể có liên quan tới vụ giết hại Tom Kristoll”.
“Gì thế?”
“Một vụ phá hoại vặt.”
Alice Marrowicz làm việc ở văn phòng trong kho trên tầng hai. Cô ta có mái tóc nâu nhạt gần như xám, kẻ mắt màu xanh nước biển, mặc áo len dày và áo choàng hoa y như một bà cô không chồng. Vậy nhưng Elizabeth biết chắc cô ta mới hai mươi tám tuổi. Phòng Điều tra đã nhận cô ta vào làm việc ở vị trí phân tích vụ án, có nghĩa là duy trì cơ sở dữ liệu về tất cả các tội ác xảy ra ở Ann Arbor.
Góc làm việc của cô ta gồm một máy tính xách tay và bộ bàn ghế, ngoài ra gần như chẳng có gì khác. Khi Elizabeth gõ lên cánh cửa mở, cô ta đang gõ bàn phím, một tệp hồ sơ trải ra trên bàn.
“Xin chào Alice.”
“Xin chào”, cô ta nói, đã đánh máy xong và xoay ghế lại.
“Tôi có thể nhờ cô một việc được không?”, Elizabeth nói.
“Cô đang điều tra vụ Kristoll phải không?”
“Đúng thế.”
“Không phải tôi muốn làm gì với cơ sở dữ liệu cũng được đâu nhé.”
“Tôi biết.”
“Tôi đã xem xét vụ giết hại Kristoll”, Alice nói. Cô ta nói với giọng bình thản, nhưng trong mắt ánh lên vẻ tinh nghịch. “Tôi nhập dòng chữ ‘nhà xuất bản bị đẩy từ cửa sổ tầng sáu’. Chẳng hiện ra kết quả gì.”
“Thật thế à?”
“Đương nhiên, những dữ liệu tôi sử dụng chỉ ở khu vực này thôi. Biết đâu có hàng đống nhà xuất bản bị đẩy khỏi cửa sổ ở các thành phố khác ấy chứ.”
“Tôi không nghi ngờ chuyện đó”, Elizabeth nói, “Nhưng giờ tôi quan tâm đến những thứ dung tục hơn. Những vụ phá hoại, đặc biệt là phá hoại ô tô, rạch lốp xe, cào xước sơn, gạch lên cửa bằng chìa khóa”.
“Tôi có thể tìm được”, Alice nói, “Dễ thôi”.
Elizabeth đưa cho cô ta một mớ giấy tờ. “Cô tìm được gì thì phải đối chiếu với danh sách này nhé. Đây là những người có liên quan tới tạp chí của Kristoll, tờ Gray Streets. Họ có thể là nạn nhân, hoặc thủ phạm của các vụ phá hoại.”
“Không quan trọng”, Alice nói, “Bất kể ở vai trò nào, tên họ cũng nằm trong cơ sở dữ liệu cả thôi”.
“Vậy tới chiều nay có xong được không?”
“Đợi tôi một tiếng nữa nhé.”