• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Vòng xoáy tội ác
  3. Trang 17

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 16
  • 17
  • 18
  • More pages
  • 46
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 16
  • 17
  • 18
  • More pages
  • 46
  • Sau

Chương 14

Đêm đó người đàn ông tự xưng là David Loogan mơ màng trong bóng tối tại căn nhà thuê của anh. Trong giấc mơ, Tom Kristoll vẫn còn sống. Hai người bọn họ đang đứng ở bãi trống giữa rừng trong Công viên Marshall, huyệt mộ của tên trộm dưới chân. Tom cầm khẩu súng màu xám bạc trong tay và thả nó xuống đất. Nhưng dưới mộ có gì đó động đậy. Loogan thoáng thấy một bàn tay nhợt nhạt nắm lấy báng khẩu súng lục. Anh nghe thấy tiếng súng nổ xé tai. Hai phát súng.

Hai phát súng khiến anh choàng tỉnh. Anh nhìn thấy một vật màu đen có hình dạng giống như ngôi mộ và chẳng cựa quậy nổi chân tay. Trong một khoảnh khắc, anh hoảng sợ, sau đó anh nhận ra thứ mình nhìn thấy là cửa ra vào phòng ngủ.

Anh trở mình chống trên hai khuỷu tay, vung chân ra khỏi giường. Chiếc quần dài của anh cọ vào ga giường tạo ra tiếng sột soạt; anh đã cứ mặc nguyên quần áo mà ngủ thiếp đi.

Anh đi nguyên bít tất xuống dưới nhà. Sau đó anh bật đèn bếp, dùng tay vốc nước uống từ vòi. Trên sàn, đôi giày của anh bám đầy đất từ mộ Tom Kristoll. Trên bàn để một chiếc bút Montblanc của Tom, một kỉ vật mà Laura Kristoll đã tặng cho Loogan.

Tựa mình vào quầy bếp, anh nhìn vào bóng tối trong phòng khách và cảm thấy ớn lạnh. Anh nghe ngóng mọi chuyển động, nhưng chẳng thấy gì. Anh chậm rãi mở một ngăn kéo bên cạnh.

Anh đi sang phòng khách, tay cầm con dao dài nhất tìm được trong tủ. Anh xác định rõ những hình chữ nhật màu đen trong phòng: ô cửa lò sưởi, cửa văn phòng của vị giáo sư. Anh bật một chiếc đèn bàn và thêm một lần nữa cảm thấy ớn lạnh. Không khí càng lạnh hơn khi anh tới gần cửa sổ nhìn ra hành lang bên ngoài. Khung kính mở ra khoảng một inch. Có một bức màn phía bên ngoài. Trên đó hai nhát cắt từ góc này tới góc kia tạo thành hình chữ X.

Loogan nghe thấy tiếng động và chắc chắn ai đó đang đứng sau lưng mình. Anh xoay người lại, vung dao chém một nhát. Lưỡi dao lướt đi trong không khí. Nó chẳng chạm vào đâu cả, không có ai hết. Anh hạ con dao xuống cho tới khi mũi dao chĩa xuống sàn nhà.

Đúng lúc đó, bóng một người đàn ông xuất hiện ở ngưỡng cửa văn phòng.

Elizabeth thức dậy trên đi văng, chăn quấn quanh người. Chiếc ti vi bị tắt tiếng giờ đã chuyển qua Chương trình đàm thoại đêm khuya. Con gái cô đứng cạnh mẹ, tay cầm ống nghe của chiếc điện thoại.

“Mẹ có điện thoại này”, Sarah nói, “Chú Carter gọi”.

Elizabeth ngáp dài. “Chào chú ấy giúp mẹ với.”

Sarah nói vào điện thoại. “Mẹ cháu vừa ngủ dậy. Chú chờ một phút nhé.”

Elizabeth ngồi dậy, bỏ chăn ra và cầm lấy ống nghe. “Sao anh lại gọi vào điện thoại này?”, cô nói.

“Tôi đã thử gọi tới máy di động của cô và chỉ nói chuyện được với hộp thư thoại”, Carter Shan nói.

Cô cầm lấy điện thoại di động trên bàn bếp và mở nó ra. “Tôi đã tắt chuông điện thoại từ lúc ở đám tang.”

“Rất vui vì chuyện đó đã được làm sáng tỏ”, Shan nói, “Tôi đang lái xe lên vùng nông thôn, tới đường vành đai phía Bắc. Tôi tin rằng cô sẽ muốn đi cùng”.

“Có chuyện gì vậy?”

“Một xác người nằm trong xe. Một người đàn ông da trắng. Bị bắn vào đầu. Tôi đoán cô sẽ quan tâm tới chuyện này.”

“Ai vậy, Carter?”

“Chưa biết rõ, nhưng chiếc xe thuộc về một người mà chúng ta biết.”

Đó là một người đàn ông cao và gầy gò, bận toàn đồ đen. Anh ta có khuôn mặt trái xoan ưa nhìn, mái tóc đen rối bù cùng bộ râu đã ba ngày chưa cạo.

Anh ta bước vào phòng khách và nói:

“Tôi có súng.”

“Thật à?”, Loogan nói, “Giơ ra xem nào”.

“Thực ra thì không có. Nhưng tôi tin rằng nó sẽ làm anh suy nghĩ lại nếu muốn dùng con dao đó.”

Loogan lập tức vung lưỡi dao lên. Bàn tay anh nắm chặt cán dao.

“Anh không cần dùng đến nó đâu”, người mặc đồ đen nói. “Nếu muốn ra tay với anh thì tôi đã làm rồi. Tôi tới đây để nói chuyện. Tôi là...”

“Michael Beccanti, tôi biết rồi”, Loogan nói, “Tôi thấy những gì mà anh đã làm với tấm rèm cửa sổ của tôi. Cắt một chữ X thay vì chữ Z - tôi coi đó như một cách ngụy trang”.

“Chữ Z khiến tôi gặp rắc rối”, Beccanti nói. Anh ta ra hiệu về phía chiếc sofa và mấy chiếc ghế. “Có lẽ chúng ta nên ngồi xuống.”

Loogan không cử động. “Anh đã ở đây bao lâu rồi?”

“Khoảng một tiếng. Lúc đó anh vẫn đang ngủ”, Beccanti nhìn đồng hồ, “Tối thứ Sáu mà anh đi ngủ sớm thế. Giờ còn chưa tới một giờ đêm”.

“Tôi đã trải qua một ngày mệt mỏi.”

“Ghế trong văn phòng thật thoải mái”, Beccanti nói, “Suýt nữa tôi cũng ngủ gật mất. Nhưng tôi mừng vì anh đã tỉnh giấc. Tôi cứ tưởng mình sẽ phải chờ ở đây đến sáng”.

“Anh không tính đánh thức tôi à?”

“Nhiều người phản ứng rất tiêu cực khi ai đó vào phòng ngủ và lay họ dậy. Người khác thì khi bạn đột nhập vào nhà, họ nổi điên lên. Anh đã ứng xử rất tốt đấy, ngoại trừ chuyện con dao. Tom đã nói anh là một người rất bình tĩnh.”

Hơi thở của Loogan tắc lại nơi cổ họng. “Tom kể về tôi với anh à?”

“Dĩ nhiên. Anh ấy luôn kể về bạn bè của mình. Anh ấy đã bao giờ nhắc đến tôi chưa?”

“Chỉ một lần thôi. Anh có giấy tờ tùy thân không? Bằng lái xe cũng được.”

“Tại sao?”

“Tom đã bao giờ kể tôi từng làm ở rạp xiếc chưa?”, Loogan hỏi, “Tôi là nghệ sĩ ném dao đấy”.

Beccanti cười khùng khục và rút ví ra. Anh ta lia chiếc bằng lái trong không khí, nó rơi cạnh chân Loogan. Đầy cẩn trọng, Loogan nhặt nó lên. Đúng là cái tên đó: Michael Eric Beccanti. Tấm ảnh trên đó cũng khá giống.

Anh vuốt ngón tay cái trên rìa của chiếc bằng lái, cân nhắc nên làm gì. Việc làm hợp lý nhất lúc này là báo cảnh sát, nhưng anh đã thôi không còn suy nghĩ hợp lý từ lâu lắm rồi.

Anh nghĩ tới Elizabeth Waishkey và cuộc chuyện trò với cô ngày hôm đó.

Tại sao anh lại đi tìm Michael Beccanti? cô đã hỏi anh. Anh sẽ làm gì khi tìm được anh ta?

Chắc là tôi sẽ phải ứng biến một chút, anh đã trả lời cô như vậy.

Beccanti đứng chờ đợi, hai cánh tay buông dọc thân người, bàn tay hướng ra phía trước. Loogan ném tấm bằng lái lại cho anh ta và quyết định sẽ tùy cơ ứng biến.

“Có lần Tom đã nhắc tới anh. Anh ta nói rằng anh đã chết.”

Người cảnh sát đi tuần đứng trên đường và gõ chiếc đèn pin lên đùi. Hơi thở của anh ta hiện rõ trong không khí ban đêm.

“Một cặp thiếu niên đã báo cảnh sát”, anh ta kể với Elizabeth và Shan, “Một nam và một nữ. Họ lái xe tới sau xe của nạn nhân và không thể vượt qua được. Họ bấm còi inh ỏi để xe đó tránh ra. Sau cùng cậu ta ra khỏi xe, đến chỗ ghế lái của chiếc xe phía trước và nhìn thấy mọi thứ”.

Shan đã tới đón Elizabeth và họ đi Đường 23 tới đường vành đai phía Bắc. Sau khoảng năm hay sáu dặm, họ rẽ vào một con đường hẹp giữa những cánh đồng ngô đã được thu hoạch. Một chiếc xe tuần tiễu và xe y tế đã tới hiện trường.

“Tụi thiếu niên”, người cảnh sát lẩm bẩm và lắc đầu. “Chắc các bạn cũng tưởng tượng ra chúng ra đây làm gì. Có lẽ lần sau cậu ta sẽ phải suy nghĩ kĩ càng hơn khi chở bạn gái đi chơi vào giờ này. Khi nhìn thấy cái đó, cậu ta vắt chân lên cổ mà chạy, chở cô gái về nhà và sau đó gọi 911. Tôi đã ghi lại tên họ đây.”

“Tốt lắm”, Elizabeth nói.

“Tôi đã mở cửa xe khi tới đây. Đáng lẽ không nên như vậy, nhưng nhiều khi chẳng thể biết trước chuyện gì sẽ xảy ra. Việc đó chẳng giúp ích gì cho anh ta cả. Không thấy mạch đập. Thấy vậy, tôi lui lại ngay.”

“Không sao đâu”, Shan nói.

“Bác sĩ pháp y đang khám nghiệm”, người cảnh sát nói, “là Eakins”.

Lillian Eakins lúc nào cũng có vẻ như đã năm mươi tuổi. Cô là một người cứng cáp và giản dị, mái tóc nâu của cô đầy những sợi bạc. Cô mở toang cả hai cửa xe của nạn nhân. Cô đang ngồi xổm trên mặt đường bên phía ghế lái khi Elizabeth tới chỗ cô.

“Ghê quá”, cô nói, không ngẩng mặt lên, “Thật sự rất kinh khủng”.

“Chào Lil”, Elizabeth nói.

“Tôi chắc cô muốn biết đây là ai.”

“Chúng tôi cũng biết qua.”

“Tôi chưa lục ví anh ta vì chưa muốn di chuyển cái xác.”

“Đừng lo. Tôi sẽ qua đó xem.”

“Ghê lắm. Tôi sẽ lấy ví anh ta. Cô cứ đứng yên đó.”

“Khỏi cần, Lil à. Đứng đây cũng đủ nhìn thấy rồi.”

“Vậy thì tên anh ta là gì?”

“Adrian Tully.”

Loogan nói, “Anh ta kể rằng anh đã tới nhà anh ta ăn trộm, và thế là anh ta phải giết anh”.

“Tom cũng có khiếu hài hước đấy”, Beccanti nói.

Mặc dù trống ngực Loogan đang đập thình thịch, anh cảm giác nhịp tim đang dần ngừng lại. Anh hạ con dao xuống, giữ nó bên người.

“Tôi đã giúp anh ta đem anh đi chôn”, anh nói khẽ, “trong một khu đất trống trong rừng”.

Beccanti bật ra một tiếng thở ngắn và rõ, cũng có thể là một tiếng cười. “Anh nói nghiêm túc đấy chứ?”

“Phải.”

“Vậy anh nên nói rõ hơn đi.”

Loogan đung đưa bàn chân. Anh lơ đãng nâng con dao lên và lướt mũi dao trên tay áo mình.

“Ba tuần trước, Tom gọi tôi tới nhà và nhờ giúp chôn cất một cái xác”, mũi dao chạm phải khuy áo, “Giờ khi tôi gặp anh ở đây, tôi có thể nói thẳng là người chúng tôi đem chôn trông chẳng giống anh chút nào. Hắn thấp hơn, tóc vàng, có một hình xăm ở cổ tay. Nhưng Tom nói hắn chính là anh. Anh ta kể anh đã tới hỏi vay tiền anh ta. Năm nghìn đô la. Khi anh ta từ chối, anh rút súng ra. Anh ta nện cho anh một cú vào thái dương bằng một chai Scotch”.

“Đoạn này có vẻ còn gần thực tế một chút - chai Scotch ấy.”

“Đúng thế”, Loogan nói, “Tom đã bịa ra câu chuyện đó, nhưng cũng có một phần là sự thật. Anh ta nói anh cần tiền vì bạn gái anh đã có thai. Anh ta cũng kể rõ mình đã gặp anh như thế nào, những mẩu chuyện mà anh đã viết cho tờ Gray Streets”.

Beccanti cụp mắt suy tư. “Tại sao anh ta phải nói dối?”

“Đó là vấn đề mấu chốt, phải không nào?”

“Tôi có thể nói chắc anh ta không tin anh. Nhưng anh ta lại nhờ anh giúp phi tang cái xác. Tôi coi đó là một dấu hiệu tin tưởng.”

“Anh ta muốn bịa ra một câu chuyện khiến tôi không nghi ngờ”, Loogan nói, “Nhưng anh ta không muốn tiết lộ danh tính người đó”.

Ánh đèn vàng nhấn chìm một nửa khuôn mặt Beccanti trong bóng tối. “Hẳn là những chuyện này có liên quan tới nhau”, anh ta nói, “Cái chết của Tom, và của người đàn ông đó”.

“Chắc chắn là thế”, Loogan nói, “Tôi có thể hiểu rõ ngọn ngành, nếu biết được người mà chúng tôi đã đem đi chôn là ai”.

Mắt Beccanti sáng rực lên trong bóng tối. “Tôi tin rằng mình có thể cho anh biết điều đó.”

Carter Shan lấy máy ảnh ra. Ánh đèn flash lóe lên đều đặn trong màn đêm, giống như những tia chớp chậm rãi, kiên nhẫn.

Lillian Eakins đứng cùng Elizabeth bên lề đường phía sau chiếc xe. “Nhìn có vẻ chỉ có một phát đạn,” Eakins nói, “vào ngay trước tai phải. Đạn bắn ra khi họng súng kề sát mang tai. Khẩu súng nằm trên ghế kia, một khẩu súng lục cỡ ba mươi tám. Một viên đạn cỡ nhỏ sẽ bật nảy trong hộp sọ, nhưng viên đạn này đi xuyên qua đầu, đục một lỗ thủng trên kính chắn gió”.

“Cô có nghĩ rằng anh ta tự bắn vào đầu mình không?”, Elizabeth hỏi.

“Ấn tượng ban đầu thì là thế.”

“Thật là một nơi kì lạ để làm chuyện đó. Chỗ này cách nhà anh ta khá xa.”

“Ai mà biết được người ta có thể làm những gì. Đây là một nơi yên tĩnh đấy chứ. Tối nay cũng không tệ để làm chuyện đó.”

Shan gọi hai người tới. Anh ta nhấc khẩu súng khỏi ghế và mở ổ đạn để cả ba có thể nhìn thấy.

“Ổ đạn sáu viên”, anh nói, “Chỉ một viên được bắn thôi”.

Anh ta bỏ số đạn vào túi đựng chứng cứ.

Quay lại phía Elizabeth, anh nói. “Liệu chúng ta có nên cho rằng Adrian Tully đã tự sát không?”

Cô bật ra một tiếng tỏ vẻ lưỡng lự qua bờ môi mím chặt.

“Nếu đúng là cậu ta giết Tom Kristoll”, Shan nói, “có thể cậu ta thấy lương tâm cắn rứt”.

Nhìn vào cái xác nằm oặt bên bánh lái, Elizabeth không nói một lời.

“Có vẻ cô không tin lắm”, Eakins nói, “và anh cũng vậy”.

“Các anh đem hắn đi chôn khoảng ba tuần trước?”

Beccanti ngồi trên ghế, chiếc đèn bàn đặt phía sau. Loogan ngồi ở ghế sofa, con dao đặt trên đùi.

“Đúng vậy”, anh nói, “Đó là vào ngày mùng Bảy, đêm thứ Tư”.

“Nghe có vẻ đúng đấy”, Beccanti nói, “Vào thứ Sáu sau đó, Tom gọi cho tôi. Anh ta có việc cần tôi giúp. Anh ta có vẻ lúng túng. Anh cần lục soát nơi ở của ai đó - một căn hộ trên đường Carpenter. Sẽ không có ai ở nhà hết, anh ta nói, và tôi cũng không cần phải đột nhập vào. Anh ta có chìa khóa”.

Beccanti ngồi ngả người thư giãn trên ghế. “Thế là cuối tuần tôi tới đó, vào đêm thứ Bảy. Tom chưa từng nói đó là nơi ở của ai, nhưng khi tới đó, tôi tìm được nhiều hóa đơn và sao kê rút tiền. Tất cả đều đề tên cùng một người: Sean Wrentmore.”

“Nghe có vẻ quen”, Loogan nói, “Tôi đoán tên anh ta có trong danh sách”.

“Danh sách nào?”

“Danh sách của tờ Gray Streets. Anh ta là nhà văn.”

“Đúng đấy”, Beccanti nói, “Tom không để tâm tới tiền bạc, trang sức hay bộ sưu tập tem của Sean Wrentmore. Anh ta nói nếu tôi tìm thấy những thứ đó thì cứ để mặc đấy. Anh ta cần tìm đĩa, CD, ổ USB, bất cứ thiết bị lưu trữ dữ liệu nào. Nhưng chẳng có thứ nào như vậy. Trong nhà cũng không có máy vi tính, không có máy tính xách tay. Tôi nghĩ Tom đã từng lục soát nơi này rồi. Tôi chỉ là phương án dự phòng thôi. Anh ta cần tôi tìm ở những chỗ mà trước đây anh ta chưa nghĩ tới”.

“Tìm kiếm các nơi cất giấu bí mật chưa bao giờ là điểm mạnh của tôi. Hồi xưa, tôi sẽ trèo cửa sổ vào nhà, khua hết ví tiền, điện thoại di động và máy ảnh rồi chui ra ngoài. Nhưng ở tù anh có thể học được nhiều thứ kì diệu. Tôi mở khóa vào nhà Sean Wrentmore lúc tám giờ tối thứ Bảy và ở lại đó tới tận sáng Chủ nhật. Tôi vặn bóng đèn, lật thảm lên tìm ô gạch rời, tháo hộp cầu chì và đường dây điện thoại khỏi tường. Tôi còn tìm xem có gì dán dưới gầm tủ, gầm bàn ghế, gầm của mọi thứ đồ đạc hay không.”

“Sau khi đã lục hết tủ lạnh rồi bới cả đất của chậu cây lên, tôi chỉ tìm thấy đúng một thứ. Tôi đã tìm thấy nó ngay từ đầu, sau nắp đậy của một ổ cắm: một chiếc USB to bằng ngón tay cái. Tôi đem nó tới văn phòng cho Tom vào thứ Hai và lấy tiền công. Sau đó chúng tôi không nhắc tới chuyện ấy nữa.”

Loogan để con dao lên chiếc nệm bên cạnh. Anh nghiêng về phía trước, chống khuỷu tay lên đầu gối. Căn nhà yên ắng. Bên ngoài, tiếng lá khô rơi nhè nhẹ.

“Tôi đoán anh không biết trong USB có chứa thông tin gì?”

“Không”, Beccanti trả lời.

“Tôi tự hỏi liệu giờ nó còn nằm ở văn phòng của anh ta không.”

Beccanti nở một nụ cười tinh quái, thọc tay vào túi áo sơ mi và lấy ra một ống nhỏ bóng loáng bằng nhựa có kích cỡ tương tự một chiếc bật lửa. Anh ta dựng nó trên bàn uống nước giữa hai người.

“Tôi đã tìm kiếm một hồi lúc chiều nay”, anh ta nói, “Văn phòng đóng cửa để thể hiện sự thương tiếc dành cho Tom, nhưng nhân viên vệ sinh thì vẫn làm việc. Tôi đi thẳng vào văn phòng của Tom như thể mình là người ở đó, ngồi ở bàn làm việc giở một cuốn sách ra đọc. Không ai thắc mắc gì cả. Khi mọi người về hết, tôi sục sạo xung quanh một chút. Có một ngăn giả dưới một tủ kéo của Tom. Chiếc USB nằm tong đó cùng với thứ này”.

Beccanti lấy ra một chiếc chìa khóa từ túi áo bên kia và vứt nó trên bàn.

“Thứ này sẽ giúp anh vào được căn hộ của Wrentmore”, anh ta nói. “Đấy là nếu anh muốn tới đó.”

Loogan cầm lấy chiếc USB. “Anh nói rằng mình không biết trong này có gì?”

“Tôi không biết. Đây là một chiếc USB được bảo mật. Anh cần có mã số.”

Loogan bỏ chiếc USB vào túi. Anh nhặt lấy chiếc chìa khóa, đặt nó thăng bằng trên ngón giữa và lật nó trên mặt sau các ngón tay. Anh đổi nó sang tay kia và lặp lại như vậy, từ bên nọ tới bên kia, từ ngón này sang ngón nọ. Anh ngừng lại khi nhìn thấy Beccanti đang mỉm cười với mình.

Anh bỏ chiếc chìa khóa vào túi cùng với chiếc USB. “Đó là lí do anh tới đây à? Để đưa cho tôi những thứ này.”

“Đúng, và cũng để xem anh là người thế nào”, Beccanti nói. “Để xem chúng ta có thể giúp đỡ nhau không.”

“Giúp đỡ nhau việc gì?”

“Tìm ra kẻ nào đã giết Tom.”

“Không phải chúng ta nên để mặc việc đó cho cảnh sát sao? Ai cũng bảo tôi như vậy.”

Beccanti nhăn mặt. “Tôi không định cứ ngồi im mà không làm gì hết. Tom đã giúp đỡ tôi rất nhiều. Anh ấy không buộc phải làm thế. Câu chuyện mà anh ấy kể với anh, trong đó tôi hỏi xin anh ấy năm nghìn đô la đúng không? Chuyện đó cũng có một phần là thật. Chỉ là anh ấy không hề từ chối. Anh ấy đưa ngay cho tôi không một chút do dự. Tôi mắc nợ anh ấy.”

Loogan ngả người ra sau và gác chân lên mặt bàn uống nước.

“Kể cả thế, tốt hơn là anh nên báo cảnh sát và nói cho họ những gì mình biết.”

“Tôi không muốn làm việc với cảnh sát”, Beccanti nói. “Và anh cũng xem lại mình đi kìa. Tôi dám cá là cảnh sát rất muốn nghe chuyện anh đã giúp Tom chôn cái xác đó trong rừng như thế nào. Có thể họ sẽ coi thông tin đó có liên quan tới cuộc điều tra.”

Loogan bỏ qua câu đó. Anh nhìn lên trần nhà, lớp vữa trên đó nhuộm màu vàng từ chiếc đèn bàn. Sau đó, anh nói: “Anh tìm kiếm trong văn phòng của Tom kĩ tới mức nào?”

“Cũng không kĩ lắm”, Beccanti nói. “Tôi tìm ra ngăn kéo giả khá dễ dàng, nhưng ngoài ra tôi không tìm kiếm thêm nữa.”

“Có khi anh nên thử lại. Để xem anh có tìm được thứ gì khác liên quan tới Sean Wrentmore hay không. Tôi có thể đưa anh vào đó lần này. Họ đã đề nghị tôi làm công việc của Tom. Tôi tin rằng như thế đồng nghĩa với việc tôi sẽ được cấp một chìa khóa vào văn phòng.”

“Được thôi.”

“Còn tôi sẽ tới căn hộ của Wrentmore. Nếu không tìm được gì, ít ra cũng sẽ lấy được ảnh của anh ta. Tôi muốn chắc chắn anh ta có phải người chúng tôi đã đem đi chôn hôm trước hay không.”

“Điều đó cũng có nghĩa là anh sẽ không báo với cảnh sát phải không?”, Beccanti hỏi khẽ.

“Chưa đâu. Chuyện này cũng giống như một quy tắc mà các luật sư phải tuân theo: khi phỏng vấn nhân chứng tại tòa, không hỏi những câu mà ta không chắc người đó sẽ trả lời như thế nào.”

“Nó giống chuyện này ở điểm nào?”

Loogan hạ giọng. “Tom có lí do khi làm những chuyện đó và giữ kín những bí mật của mình. Tôi không muốn báo cảnh sát khi mà chưa biết những chuyện này có thể đi tới đâu.”