Carter Shan dành cả hai ngày nghỉ cuối tuần đi lấy lời khai của đám “cú đêm” và những người mắc chứng mất ngủ.
Trưa ngày thứ Bảy, anh nói chuyện với một người buôn bán máy kéo sống trong một ngôi nhà mới được sửa sang lại ở nông trại cách con đường hẹp nơi Adrian Tully bị giết khoảng một dặm. Lúc rạng sáng thứ Bảy, người này đang ngồi chơi bài một mình. Đến một giờ kém mười lăm phút sáng, ông nghe thấy tiếng nổ giống như tiếng súng trường. Mặc dù việc săn bắn bị cấm ở các khu rừng và bãi đất lân cận, ông ta đã quen với việc cứ thỉnh thoảng lại nghe thấy tiếng súng, tuy không phải vào lúc một giờ sáng thế này. Tiếng súng thứ hai, ông ta nói, nổ sau đó vài phút.
Chiều thứ Bảy, Shan phỏng vấn một người thợ may đã giải nghệ, khi đó đang chăm sóc một chú mèo ốm. Bà ta sống cách nơi Tully bị giết ba phần tư dặm. Bà chắc chắn không có tiếng súng nào.
Tối thứ Bảy, Shan tới nói chuyện với một bác sĩ cấp cứu mà rạng sáng hôm đó trở về nhà sau ca làm việc ban đêm. Anh ta vừa mới tự làm cho mình một chiếc sandwich và mang nó sang phòng khách thì nghe thấy tiếng súng. Anh ta thề rằng súng chỉ nổ có một lần.
Đầu giờ chiều Chủ Nhật, Shan lấy lời khai từ một thiếu nữ là nhiếp ảnh gia nghiệp dư đêm thứ Sáu đã thức rất muộn để chụp ảnh mặt trăng. Hôm đó cô ta cầm theo bút và sổ để ghi khẩu độ, tốc độ ống kính. Cô đã ghi lại thời gian nghe thấy tiếng súng thứ nhất: 12:41 sáng. Tiếng súng thứ hai, theo như cô ghi được, vào lúc 12:44. Tiếng súng thứ ba lúc 12:50 và thứ tư lúc 12:53.
Tối Chủ nhật, nhóm thám tử họp tại văn phòng của Cảnh sát trưởng Owen McCaleb trong Tòa thị chính. Shan cũng góp mặt cùng với Elizabeth, người vừa trở về từ cuộc viếng thăm Nathan Hideaway.
McCaleb ngồi trên một góc bàn làm việc. Những người còn lại ngồi thành hình bán nguyệt. Shan tóm tắt lại những gì mình thu thập được và ngồi nghe những lời trêu chọc từ đồng nghiệp.
“Đáng ra cậu nên ngừng lại sau khi phỏng vấn nhân chứng đầu tiên”, Harvey Mitchum nói. Đó là một người đàn ông da đen vui tính đã làm việc ở đây hai mươi năm. “Hai phát súng. Đó chính là câu trả lời mà chúng ta muốn nghe. Những người còn lại chỉ làm mọi chuyện rối tung lên thôi.”
Tới lượt Mitchum báo cáo. Anh ta và Ron Wintergreen đã tổ chức tìm kiếm tại hiện trường vụ sát hại Adrian Tully. Xe của Tully đã được chuyển khỏi đó sau khi vị trí của nó được đánh dấu cẩn thận. Mitchum và Wintergreen đã ngăn ra một khu tìm kiếm trải dài hết cánh đồng hai bên đường tới khu rừng gần đó.
Một đội cảnh sát và học viên tập sự - được trang bị máy dò kim loại mượn từ Khoa Khảo cổ học và Khoa Địa lý của trường Đại học - đã thay phiên nhau tìm kiếm một cách có hệ thống cả khu vực suốt chiều Chủ nhật.
“Chúng tôi đang tìm hai viên đạn”, Mitchum nói, “Một viên đã giết chết Tully và xuyên một lỗ trên kính chắn gió. Viên còn lại - giả sử có một viên đạn thứ hai - có thể đã được tên giết người bắn ra để tạo dấu thuốc súng trên tay Tully. Ron tìm được viên đầu tiên rất sớm, trên cánh đồng bên phía ghế lái”.
Ron Wintergreen, một người gầy và cao lêu nghêu với bộ tóc vàng nhạt, tỏ vẻ khó chịu khi thấy có người nhắc tới tên mình. Tựa lưng vào tường, anh ta cúi đầu nhìn xuống dây buộc của đôi giày đi bộ.
“Tiếc là,” Mitchum nói, “chúng ta không gặp may sau đó. Viên đạn thứ hai, nếu quả là nó tồn tại, có thể đã đi qua đúng cái lỗ trên kính chắn gió tạo bởi viên đạn thứ nhất mặc dù đó sẽ là một phát súng rất khó. Nhiều khả năng kẻ sát nhân đã hạ kính cửa xuống và bắn ra ngoài. Chúng tôi đã tìm ở cả hai bên nhưng không thấy”.
Người báo cáo tiếp theo là Kim Reyes. Là một trong những người trẻ nhất trong đội, cô đã được giao nhiệm vụ phỏng vấn bạn bè và bạn cùng lớp ở trường Đại học với Adrian Tully. Bọn họ thường miêu tả Tully là người rụt rè và có tính khí thất thường. Không ai đủ mạnh dạn khẳng định cậu ta bị trầm cảm hoặc có ý định tự sát. Ngoài ra chưa ai từng thấy cậu ta sở hữu súng hoặc nghe cậu nói tới chuyện mua một khẩu.
Reyes cũng đã được giao lục soát xe của Tully. Tất cả các vật dụng trong xe đều đã được phân loại, kể cả mấy lon nước ngọt và giấy bọc đồ ăn nhanh nằm vương vãi trên ghế sau. Các vật dụng có thể in dấu vân tay trên đó đều sẽ được kiểm tra kĩ càng.
“Tôi tìm thấy một vật khá thú vị ở ghế trước”, cô nói, “Nó mắc vào rãnh để trượt ghế từ trước ra sau”.
Cô mở phong bì kẹp dưới cánh tay và lấy ra một túi nylon đựng chứng cứ. Trong đó là một mảnh giấy nhỏ hình tam giác. Một cạnh mảnh giấy không được thẳng, như thể nó đã được xé ra từ một tờ giấy lớn hơn.
Trên mảnh giấy có vài chữ in. Elizabeth nghiêng người tới gần quan sát. Cô có thể luận ra dòng chữ OXFORD UNIVERSI-
“Đó là một miếng của bìa cuốn sách”, Reyes nói, “Nó khiến tôi phải chú ý, vì cuốn sách trên bàn làm việc của Tom Kristoll bị mất tờ bìa. Đó là cuốn Tuyển tập Shakespeare. Tôi muốn so sánh nó, thế là tôi tạt vào hàng sách Borders xem ở đó có bán cuốn này không”.
Cô lấy ra khỏi phong bì một bìa sách còn nguyên vẹn. Elizabeth liếc nhìn tên nhà xuất bản trên bìa sau: OXFORD UNIVERSITY PRESS1.
1 Nhà xuất bản Đại học Oxford.
“Hay chưa”, cô nói, nửa là với chính mình.
“Chúng trùng khớp”, Reyes nói.
Owen McCaleb với lấy túi đựng chứng cứ và xem xét mảnh giấy tam giác nhỏ bên trong.
“Cô có nghĩ đây là chứng cứ giả mạo không?”, ông ta nói với Elizabeth.
Cô lưỡng lự. “Tôi không cho là có dấu vân tay trên đó.”
“Sạch bong”, Reyes nói, “Không có dấu vân tay nào”.
Carter Shan từ nãy ngồi trên một chiếc ghế cạnh cửa sổ giờ đứng dậy. “Nếu là chứng cứ giả, nó xác nhận những gì chúng ta suy luận tới giờ là chính xác. Kẻ giết Tom Kristoll đánh anh ta bất tỉnh bằng một cuốn sách, sau đó lột bìa sách ra vì trên đó có dấu vân tay của hắn. Thế rồi hắn quyết định giết Tully và vu cho cậu ta tội giết Kristoll. Hắn xé một mảnh từ tờ bìa sách, xóa dấu vân tay và để lại trong xe của Tully.”
Elizabeth nói thêm, “Thông minh thật đấy, chỉ để lại một mảnh nhỏ. Tinh vi lắm. Một cách khác là để lại toàn bộ tờ bìa trong xe, nhưng hắn sẽ phải lau dấu vân tay trên cả tấm bìa. Và khi tìm thấy cả tờ bìa sạch bóng dấu vân tay, hẳn là chúng ta sẽ nghi ngờ.
Tấm bìa sách là vật kết nối Tully với vụ sát hại. Tại sao hắn lại bỏ bao công sức lau sạch dấu vân tay trên tờ bìa mà không vứt luôn nó đi?”.
“Dàn cảnh thế này chúng ta có thể lầm tưởng Tully trốn chạy khỏi hiện trường vụ sát hại Kristoll. Cậu ta nhét tấm bìa dưới ghế khi tẩu thoát. Sau đó cậu ta dừng lại đâu đó và lấy tấm bìa ra vứt, đem đốt hoặc để làm trời làm đất gì đó. Một mảnh bị rách mắc kẹt dưới ghế mà cậu ta không biết.”
McCaleb gõ ngón tay trên cạnh bàn. “Có khi thực tế xảy ra đúng như vậy thì sao? Tully giết Kristoll, giấu tấm bìa dưới ghế. Sau đó cậu ta đem đốt nó - ngoại trừ một miếng ở góc bị kẹt lại. Mảnh bìa này đã nằm nguyên dưới ghế cho tới khi Tully tự sát, và rồi ta tìm thấy nó. Tại sao lại không chứ?”
“Có nhân chứng đã nghe thấy hai tiếng súng”, Shan nói.
“Và cả những nhân chứng khác nghe thấy một, bốn hoặc chẳng có tiếng súng nào”, McCaleb nói.
Kim Reyes xen vào. “Còn một khả năng nữa. Giả sử Tully đã giết Kristoll và mảnh bìa bị kẹt dưới ghế cậu ta đúng như thế. Nhưng ai đó - một kẻ tòng phạm - đã dụ Tully ra cánh đồng ngô và bắn cậu để bịt đầu mối.”
Harvey Mitchum nín cười. “Ôi, đừng có nói thế chứ, Kim. Vụ này đã rắc rối lắm rồi. Tôi ghét phải giải thích nó với bồi thẩm đoàn.”
Reyes đang định đáp lại thì McCaleb cắt ngang. “Tiếp tục thôi”, ông nói, “Chúng ta còn chưa nghe báo cáo của Elizabeth”.
Elizabeth hít sâu một hơi và bắt đầu tóm tắt lại cuộc nói chuyện của cô với Bridget Shellcross, Casimir Hifflyn và Nathan Hideaway. Trong khi cô nói, những ngón tay vô tình mân mê chuỗi vòng ở cổ. Khi cô báo cáo xong, McCaleb hỏi cô phân tích những gì thu lượm được như thế nào. Cô có nghi ngờ ai trong số ba người này có liên quan tới cái chết của Kristoll, hoặc của Tully không?
“Hifflyn và Hideaway đều đang sống một mình”, cô nói, “Vợ của Hideaway đã chết sáu năm về trước. Hifflyn thì nói vợ anh ta đang ở châu Âu, tuy vậy tôi chưa xác minh được thông tin này. Tôi đang định làm việc đó. Tôi không muốn sau này mới khám phá ra có thể cô ta đã được chôn dưới lớp đá lát sân sau”.
Những ngón tay cô xoắn chuỗi vòng, “Cả hai người không có chứng cứ ngoại phạm trong cả vụ Kristoll và vụ Tully. Bridget Shellcross sống cùng một người phụ nữ tên là Rachel Kent và nói rằng đã ở nhà cùng cô ta trong cả hai buổi tối đó”.
“Shellcross là một phụ nữ thấp bé, và hình ảnh cô ta nhấc được một xác người đưa qua cửa sổ thật là nực cười, nhưng cả hai người cùng làm thì chuyện đó hoàn toàn có thể. Tôi nghĩ Rachel có khi còn đủ sức làm việc đó một mình. Cass Hifflyn nói Shellcross đã từng có thời gian quan hệ tình cảm với Tom Kristoll. Điều này làm tăng khả năng Shellcross gần đây đã quay lại với Kristoll. Nếu đó là sự thực và Rachel biết được chuyện đó - tôi có thể tin Rachel đã ‘giúp’ đưa Kristoll qua cửa sổ.”
“Hifflyn cũng thừa nhận từng có quan hệ với Laura Kristoll từ hồi còn học Đại học, và Tom đã cướp cô ta khỏi tay anh. Việc này cung cấp động cơ để anh ta giết Kristoll - một động cơ giết người nung nấu suốt hai mươi năm. Nếu anh ta giết Kristoll để trả thù, đây có thể là vụ trả thù có tính toán kiên nhẫn nhất trong lịch sử.”
“Tôi chưa thấy Hideaway có động cơ nào để giết người. Kristoll là ân nhân của ông ta. Hideaway đã sáu mươi tuổi, nhưng còn rất tráng kiện. Ông ta tập thể thao thường xuyên. Tôi cho rằng ông đủ sức đưa một xác người qua cửa sổ đó.”
Cô lăn đi lăn lại chuỗi hạt trên da. “Cả ba người - Shellcross, Hifflyn và Hideaway - đều quen biết Adrian Tully. Bất cứ ai trong số họ, theo tôi, cũng có thể bịa ra một lí do để thuyết phục cậu ta lái xe ra đó gặp mặt ban đêm trên con đường vắng.”
Cả nhóm bàn bạc một lúc nữa trước khi giải tán. Owen McCaleb muốn biết liệu có ai khác có thể dụ Tully ra con đường vắng đó không. Tên của Laura Kristoll được thêm vào danh sách. Cần phải khai thác cô ta. Các manh mối khác cần phải được đào sâu: khả năng Tom Kristoll và Bridget Shellcross nối lại quan hệ tình cảm, hay chuyện tương tự giữa Laura Kristoll và Casimir Hifflyn. Các cuộc thẩm vấn phải được tiến hành, những bức ảnh thì được đưa cho nhân viên khách sạn xem.
Elizabeth rời khỏi Tòa thị chính khi đã quá bảy giờ tối. Bầu trời đêm màu xanh đen. Một cơn gió mát thổi qua. Khi cô rẽ vào con phố trước nhà mình, mưa bắt đầu rơi. Cô nhìn ngôi nhà mình từ đằng xa. Đèn hành lang được bật sáng. Sarah đang đứng đó, bên cạnh cô bé là một người đang dựa vào lan can. Thoạt đầu Elizabeth nghĩ rằng đó là bạn ở trường của Sarah, Billy Rydell. Nhưng Billy cao và rất gầy. Cậu có mái tóc sẫm lúc nào cũng bù xù. Còn người đàn ông đứng trong hành lang có đôi vai rộng. Sarah đang nói chuyện sôi nổi với anh ta, hai tay khua khoắng. Khi anh ta nghiêng người về phía trước ra chỗ ánh đèn, có thể nhìn thấy mái tóc anh có màu nâu đỏ. Chính là David Loogan.
Elizabeth rời khỏi xe và đi lên con đường dẫn vào nhà. Giờ cô mới nhìn rõ ý nghĩa điệu bộ tay của Sarah. Con gái cô đang tung hứng. Ba quả cam vẽ thành từng đường cong trong không trung. Sarah nhìn thấy cô và theo phản xạ vẫy tay chào khiến động tác bị rối, những quả cam rơi nảy trên khắp sàn hành lang. Một quả lăn xuống cầu thang và Elizabeth dùng chân chặn nó lại.
Loogan cúi xuống nhặt những quả còn lại và ngoảnh lại ném cho Elizabeth một nụ cười. “Chào thám tử.”
“Xin chào. Có chuyện gì ở đây thế?”
“Chú David là nghệ sĩ tung hứng”, Sarah nói, “Chú ấy đang dạy con đấy”.
“Cô bé có năng khiếu lắm”, Loogan nói.
“Cháu vẫn còn phải tập nhiều. Nó vẫn chưa tự nhiên lắm, cứ như là một trò ảo thuật ấy.”
“Đúng là một trò ảo thuật mà”, Loogan nói.
Elizabeth nhập hội với họ trên hành lang. “Con thử làm lại đi.”
Sarah lại cầm lấy những quả cam và sắp xếp chúng trong tay. Cô bé làm vài động tác thử như thể để tự nhắc nhở bản thân và rồi tung những quả cam lên. Cô bé giữ nguyên các động tác đều đặn trong năm giây, rồi mười giây. Elizabeth nhìn thấy khoảnh khắc cô bé không kiểm soát được nữa. Loogan cũng nhận ra điều đó. Anh bắt lấy một quả cam tung lỗi trên không và loáng một cái Elizabeth đã thấy anh cầm cả ba quả trong tay. Anh tung chúng lên chạm tới trần hành lang rồi bất chợt ngừng lại, tay phải cầm hai quả cam và tay trái cầm một quả. Anh đưa lại chúng cho Sarah.
“Cháu giỏi lắm”, anh nói.
Elizabeth mỉm cười. “Ấn tượng quá!”
Sarah tung một quả cam lên và bắt nó. “Con đã mời chú David đây ở lại ăn tối với chúng ta.”
“Thật à?”
“Tôi e rằng mình không ở lại được”, Loogan nói.
“Chú ấy không muốn làm phiền mẹ con mình”, Sarah nói, “Mẹ phải thuyết phục chú ấy thôi”.
“Được rồi.”
“Con vào nhà đây”, Sarah nói. Khi đã mở cửa, cô bé quay lại. “Mọi người nghĩ sao nếu có cam trong món salad?”
Elizabeth ngẫm nghĩ câu trả lời. “Mẹ nghĩ cả ba quả thì nhiều quá.”
“Thế thì một quả thôi vậy.”
Khi cửa đóng, Loogan nói nhỏ: “Tôi hi vọng cô không phiền vì tôi tới đây.” Anh cố ý tỏ vẻ suồng sã. Râu mọc lởm chởm trên cằm anh, có màu tối hơn màu tóc đỏ. Anh mặc áo khoác giản dị, sơ mi kẻ ca rô, quần bò và đôi giày đi bộ to tướng. Nhưng đôi mắt anh lóe sáng, miệng tạo một nét mỉa mai.
“Tôi không phiền đâu”, Elizabeth nói.
“Địa chỉ của cô nằm trong danh bạ điện thoại”, anh nói.
“Thế cũng được coi là một lời mời đấy nhỉ.”
“Con gái cô đáng yêu quá.”
“Đúng đấy.”
“Cô không định hỏi tại sao tôi tới đây à?”
Elizabeth tựa lưng vào cột và lắng nghe tiếng mưa rơi trên mái hành lang. “Đôi khi tôi thấy nếu mình không nói gì, người ta sẽ tự kể cho tôi những gì mà họ muốn.”
“Tôi đã nghe tin về Adrian Tully”, Loogan nói, “Tôi tự hỏi việc đó đã xảy ra như thế nào”.
“Thật không?”
“Có lẽ tôi không nên tỏ ra quá sốt sắng. Cô sẽ cho là tôi đã phạm tội ác nào đó.”
Elizabeth đưa tay ra ngoài hứng mưa. “Hôm nay chúng tôi đã có một buổi họp để cân nhắc ai có thể là người giết Adrian Tully. Không ai nhắc tới tên anh cả.”
“Thế thì tốt.”
“Đáng ra không nên như vậy. Anh có biết chúng tôi đang coi Tully là đối tượng tình nghi trong vụ sát hại Tom Kristoll không?”
“Không”, Loogan nói, “Thật thế à?”.
“Phải. Chúng tôi cho rằng Tully đã phá hoại xe ô tô của anh. Cậu ta biết về mối tình của anh với Laura Kristoll. Có thể cậu ta đã đến kể lại mọi chuyện cho Tom và sau đó họ cãi nhau. Anh chưa biết những chuyện này à? Laura không nói với anh sao?”
“Không. Vậy là cô ta cũng biết à?”
“Ít nhất cô ấy biết Tully là nghi can trong vụ này. Tôi cũng không ngờ cô ấy không nói gì với anh.”
“Đúng là không nói gì cả.”
“Nếu cô ta kể với anh, và nếu anh tin rằng Tully thực sự đã giết Tom Kristoll, điều đó sẽ cho anh động cơ hành động. Tom là bạn anh. Hẳn là anh rất muốn kẻ sát nhân bị bắt. Nếu đây là một truyện đăng trên tờ Gray Streets thì anh sẽ tự mình đi bắt hắn. Có đúng là có lần anh đã nói với tôi như vậy không?”
“Phải.”
“Thậm chí anh còn đóng vai thám tử cơ đấy”, Elizabeth nói, “Anh đã tìm thấy Beccanti chưa?”.
Loogan ngửa hai bàn tay. “Tôi còn chưa đi tìm anh ta.”
“Nếu đây là truyện đăng trên tờ Gray Streets”, cô nói, “tóm được kẻ giết Tom Kristoll có lẽ vẫn là chưa đủ với anh. Anh muốn trừng phạt hắn. Anh đã bao giờ tới triển lãm súng chưa, Loogan?”.
Anh tỏ vẻ ngạc nhiên. “Chưa. Tại sao?”
“Anh đã từng sở hữu súng chưa?”
“Chưa.”
“Xin lỗi vì câu hỏi đường đột này”, Elizabeth nói, “Tôi đã làm việc quần quật cả ngày hôm nay và có lúc tôi thấy thật mệt mỏi vì những chuyện chẳng đâu vào đâu này. Có phải anh đã dụ Adrian Tully tới cánh đồng ngô và bắn vỡ đầu cậu ta?”.
Anh nói nhỏ nhưng kiên quyết. “Không.”
Cô tiến tới gần anh và nhìn kĩ khuôn mặt anh dưới ánh đèn hành lang. Không có biểu hiện dối trá nào. Anh đáp trả cái nhìn của cô một cách tò mò. Mặc dù chưa kịp ngắm khuôn mặt anh thật lâu, cô cũng có đủ thời gian để nhớ ra lần cuối mình gặp anh là khi nào: mới hai ngày trước ở đám tang của Tom Kristoll. Cô nhận ra mình cảm thấy rất vui khi gặp lại anh.
Vài ý nghĩ khác bất chợt nảy ra trong tâm trí cô: David Loogan biết nhiều thông tin quan trọng. Cô có thể thuyết phục anh ở lại ăn bữa tối.
Nếu anh ta đồng ý, sau đó sẽ nán lại một chút. Sarah sẽ đi làm bài tập về nhà. Anh sẽ ngỏ ý muốn giúp cô dọn dẹp. Điều đó hợp với tính cách anh ta, với chiếc áo kẻ ca rô và quần bò, với tấm lưng rộng vững chãi. Anh sẽ tự nguyện rửa bát giúp cô. Rồi khi anh đứng cạnh bồn rửa, cô sẽ đứng sau lưng anh - cô cũng cao gần bằng anh. Cổ áo anh tỏa mùi của đồ mới giặt là, và cô sẽ đặt hai tay lên vai anh.
Thật là những ý nghĩ kì lạ!
Nếu anh ta có liên quan tới cái chết của Adrian Tully hoặc Tom Kristoll, cô sẽ phải làm chứng chống lại anh. Cô sẽ phải dự phiên đối chất. Thế rồi cô phải giải thích tại sao lại tiếp một kẻ bị tình nghi giết người trong nhà mình. Người ta sẽ tra hỏi cô về tất cả mọi thứ.
Lúc đó, thám tử Waishkey, cô đã ngửi mùi cổ áo của bị cáo phải không?
Đứng dưới ánh đèn hành lang cùng David Loogan, cô cảm thấy những ý nghĩ đó thật nực cười. Cô ngoảnh mặt, giấu đi nụ cười trên môi. Nếu điều đó thật sự xảy ra thì cũng chẳng nực cười lắm đâu.
Cô mở cửa. Loogan vẫn đứng nguyên tại chỗ.
“Tôi tin những gì anh nói”, cô nói, “về vụ Adrian Tully”.
Anh vẫn nhìn cô một cách tò mò, không nói lời nào.
“Tôi vào nhà đây”, cô nói, “Hi vọng anh không phật ý nếu tôi không mời anh ở lại tối nay”.