Mitchum viên nhau bên lái đã bờ xe gọi sông tới điện đó, Huron. để từ lại vườn Elizabeth ô tô Nichols, ở bãi và đỗ Shan một cạnh cùng công bờ sông rồi đi dọc theo con đường đất rộng tới một địa điểm ở chân đồi nơi Mitchum đang đứng cùng một người phụ nữ da đen cao gầy ngoài năm mươi tuổi.
Người phụ nữ dắt theo một con chó, loại chó lai gần giống chó săn lông xám. Bà ta kể lại với Elizabeth và Shan rằng bà đã tháo xích cho con chó và nó lao thẳng lên đồi vào rừng. Nó đã ở đó rất lâu. Sau cùng, nó trở lại, miệng tha một chiếc giày. Đó là một chiếc giày chạy màu trắng bám đầy bùn đất và vấy một vết giống như dấu máu.
Chiếc giày có kích cỡ số mười. Wrentmore đi giày cỡ chín rưỡi - quá sít sao để loại bỏ khả năng đây là giày của anh ta. Tuy vậy, Elizabeth vẫn còn hồ nghi. Theo lời Laura Kristoll, Wrentmore đã bị đánh vào đầu; vậy thì không rõ tại sao dấu máu lại nằm trên chiếc giày. Một cuộc gọi cho David Loogan có thể giải đáp mọi vấn đề, nếu anh nhấc máy và sẵn sàng trả lời, nhưng khi thử quay số của anh, cô được nối tới hộp thư thoại hệt như mọi lần.
Sau cùng họ chẳng biết làm gì khác ngoài việc tìm kiếm. Cô, Mitchum và Shan đi theo con đường mòn leo lên đồi để vào rừng. Khoảng một giờ sau, Ron Wintergreen nhập hội với họ, mang theo một chú chó nghiệp vụ từ sở cảnh sát. Lúc ba giờ, Elizabeth và Shan từ biệt nhau. Shan được gọi đi điều tra một vụ án khác. Anh ta thả Elizabeth ở Tòa thị chính.
Trở lại bàn làm việc, cô viết báo cáo cuộc nói chuyện với luật sư của Wrentmore, sau đó lấy chồng thư của Wrentmore từ bàn của Shan rồi xem từng lá thư một. Cô vẫn đang chăm chú với công việc đó khi Alice Marrowicz đi ngang qua, trên người mặc một bộ váy hoa y hệt tấm rèm cửa cũ.
“Tôi đã gọi điện tới các khách sạn”, Alice nói, “Chúng ta đã gửi fax có ảnh và miêu tả nhân dạng Loogan, nhưng tôi cũng điều tra thêm như cô đã yêu cầu - hỏi xem có ai đặt phòng bằng tên Ted Carmady không. Tôi đã rà soát tất cả khách sạn trong thành phố này, một số ở Detroit và các khu lân cận. Chưa thấy gì. Tôi vẫn sẽ tiếp tục tìm kiếm”.
“Cảm ơn Alice. Nhưng anh ta đủ thông minh để nghĩ ra một tên giả mới. Đừng để chuyện này làm cô sao nhãng các việc khác cần làm.”
“Chẳng sao đâu. Giá mà tôi có thể làm nhiều điều hơn để giúp đỡ cô.”
Elizabeth lùa tay lên mái tóc. “Cô có thể giúp tôi với đống thư từ này của Wrentmore nếu muốn”, cô cầm lên một sao kê thẻ tín dụng của anh ta, “Tất cả những gì tôi tìm thấy là anh ta mua xăng, mấy món tạp phẩm và thỉnh thoảng đi ăn tiệm - theo như tôi thấy, anh ta đi ăn một mình”.
Cô xếp đống thư từ thành hai chồng, đặt một chồng lên bàn của Shan. “Đây là những thứ tôi đã xem xong”, cô nói, “Để xem cô có tìm được gì không nào”.
Alice ngồi vào ghế của Shan và bắt tay vào việc, xem từng mảnh giấy như thể nó sẽ dẫn cô ta tới một kho báu bí mật. Cô vẫn làm việc ở đó khi Elizabeth rời đi lúc năm giờ.
Dưới bầu trời xanh thẫm, Elizabeth đi xuống từng bậc thang của Tòa thị chính. Khi tới bãi đỗ xe, cô nghĩ tới việc đi mua mấy món đồ ăn, sau đó về nhà với con gái.
Cô lái xe khỏi bãi đỗ và đi trên phố Main hướng về phía nam. Biểu ngữ được chăng trên các cột đèn. Đám sinh viên đứng hút thuốc trước các cửa hiệu trên phố. Cô hòa theo dòng xe cộ lúc tan tầm một lúc, sau đó tuy không chủ tâm, cô lái xe về phía tây tới khu nhà của David Loogan. Cô tìm được con phố và đỗ xe trước căn nhà thuê của anh. Một chữ X màu vàng được cảnh sát dán trên cửa.
Cô ra khỏi xe và bước chầm chậm dọc lối đi. Cô đi tới hành lang, bước chậm rãi trên những bậc thang rỗng bằng gỗ. Cô đứng bên xích đu ngoài hành lang và lấy điện thoại ra. Sau đó, cô quay số của Loogan, lòng thầm nghĩ sẽ lại được nối tới hộp thư thoại của anh lần nữa.
Anh nhấc máy sau hồi chuông thứ hai. “Thám tử Waishkey”, anh nói, “Cô làm tôi giật cả mình. Tôi đang định kiểm tra hộp thư thoại đấy”.
Giờ khi đã liên lạc được với anh, cô lại băn khoăn mình nên nói gì. Cô ngồi trên xích đu, ngả người gác một chân lên lan can.
“Anh đang ở đâu?”, cô hỏi anh.
“Lúc nào cô cũng lạc quan gớm nhỉ”, anh nói, “Rồi có lúc tôi sẽ cho cô biết cũng nên”.
“Ước gì được như vậy.”
“Tôi tự hỏi sau đó chuyện gì sẽ xảy ra”, anh nói, “Liệu cô có cử xe cảnh sát hú còi ầm ĩ truy lùng tôi không? Tôi đang ở nghĩa trang, đứng cạnh hàng rào nơi hai chúng ta đã nói chuyện với nhau trong tang lễ của Tom”.
Cô nhún chân nhè nhẹ, đung đưa chiếc xích đu. “Tôi sẽ không cử xe cảnh sát tới đâu. Nhưng tôi không tin anh đang ở đó.”
“Phải rồi, không phải ở đó đâu. Mọi chuyện giờ sao rồi? Cô đã nói chuyện với Sandy Vogel chưa? Cô có hỏi cô ta đã kể cho ai chuyện bắt gặp Beccanti trong văn phòng của Tom Kristoll không?”
“Rồi.”
“Cô ta nói sao?”
Cô thả lỏng theo nhịp chiếc xích đu. “Tôi e rằng thông tin đó là để phục vụ điều tra. Tôi rất muốn cho anh biết, nhưng theo đúng nguyên tắc, tôi không thể làm thế. Nhưng tôi sẵn lòng vi phạm điều luật này một chút, nếu anh trả lời tôi một số điều.”
“Gì thế?”
“Thí dụ như nơi Sean Wrentmore đã bị chôn.”
“Tiết lộ vậy thì nhiều quá.”
“Thế thì hãy bắt đầu nhẹ nhàng thôi. Có phải anh ta bị chôn ở vườn Nichols?”
“Không. Cô lấy thông tin đó ở đâu ra thế?”
“Có người đã tìm được một chiếc giày trong rừng ở đó hôm nay. Nó có cỡ gần giống cỡ giày anh ta.”
“Anh ta không bị chôn trong vườn đâu. Cô không nên phí phạm thời gian ở đó nữa.”
“Quá muộn rồi”, cô nói, “Chúng tôi đã tìm ở đó gần như cả buổi chiều. Tôi cùng ba thám tử nữa dùng chó nghiệp vụ. Giờ cuộc tìm kiếm sẽ được tiến hành như vậy đó, xem ai tìm được một mảnh quần áo trong rừng hay một mô đất nhìn có vẻ như đã bị xới lên. Anh phải cho tôi biết cần tìm Sean Wrentmore ở đâu”.
“Tôi chưa sẵn sàng làm điều đó”, anh nói.
Cô lắng nghe tiếng gió thổi qua cành lá bụi cây đầu xuân cạnh hàng lang.
“Tôi hiểu”, cô nói, “Wrentmore là cứu cánh của anh. Anh biết anh ta được chôn ở đâu, và anh định dùng thông tin này để mặc cả”. Những cành cây đầu xuân khẳng khiu cọ vào lan can gỗ. “Anh bị nghi oan đã đâm chết Michael Beccanti. Anh định sẽ tìm cho ra kẻ giết anh ta, và tiện thể giải đáp luôn vụ sát hại Tom Kristoll. Nhưng những chuyện đó không bao giờ thành sự thực được. Anh biết tại sao không?”
“Có”, anh nói không chút do dự.
“Bởi vì đây không phải là một câu chuyện trên tờ Gray Streets”, cô nói, “Nghe này, anh thừa hiểu những gì tôi nói là đúng. Anh nên ra đầu thú đi, và cho tôi biết Wrentmore được chôn ở đâu, sau đó ta sẽ tính tiếp”.
“Tôi sẽ suy nghĩ về điều này. Đợi tôi vài ngày nữa.”
“Đừng suy nghĩ nữa. Hành động đi. Giờ tôi đang ở nhà anh. Tôi sẽ chờ anh ở đây. Chúng ta sẽ cùng nhau suy tính phải làm gì tiếp theo.”
Anh ngừng lại, sự im lặng khiến lòng cô tràn đầy hi vọng, nhưng nó chỉ tồn tại trong một khoảnh khắc ngắn ngủi.
“Cám dỗ thật đấy”, anh nói, “Nhưng tôi chưa sẵn sàng. Cứ đợi vài ngày nữa nhé”.
Cách đó chưa đầy ba dặm, Loogan tắt điện thoại và bỏ nó vào túi. Anh cúi nhìn bia mộ Tom Kristoll, sau đó quay đi và bước qua bãi cỏ nghĩa trang tới chỗ đỗ xe. Anh lái xe trên con đường ngoằn ngoèo tới cổng rồi nhằm hướng đông đi về phía trung tâm Ann Arbor.
Vài phút sau, anh tìm được chỗ đỗ xe trên một con phố nhỏ. Anh đi qua hai dãy nhà tới phố Main, lủi vào quán cafe, tìm được một chỗ ngồi sát cửa sổ. Từ đây, anh có thể nhìn thấy tòa nhà trong đó có văn phòng tòa soạn Gray Streets.
Trên một tờ thời báo Ann Arbor bị vứt lại, bức ảnh anh chễm chệ bên dòng tít truy nã. Gương mặt trên ảnh đang nhìn chằm chằm vào chính anh. Anh gấp tờ báo lại và mỉm cười với một cô gái đang đọc sách của Kafka ở bàn bên cạnh. Hai khóe môi cô thoáng nhếch lên, rồi cô lại chăm chú xem cuốn sách. Tấm ảnh đăng trên báo có chất lượng kém, và giờ anh càng chẳng giống trong ảnh chút nào. Anh đã cạo đầu và mua một cặp kính đọc sách ở hiệu kính thuốc - gọng nhựa màu đen và mắt kính nhẹ nhất anh tìm được. Với mái đầu cạo nhẵn và cặp kính, vẻ ngoài của anh giờ cũng giống như bao người khác.
Một lúc sau, cửa gian sảnh của tòa nhà Gray Streets bật mở, một phụ nữ bước ra. Sandy Vogel mặc một chiếc áo khoác dài màu xanh da trời và đeo túi xách trên vai. Cô ta đi bộ về phía nam dọc theo phố Main và khi cô ta đã đi khuất, Loogan đứng dậy. Anh mỉm cười lần nữa với cô gái đang đọc cuốn sách của Kafka, đẩy cửa ra vào khiến chuông kêu leng keng và bước qua bên kia đường.
Elizabeth gập điện thoại di động lại và đứng lên khỏi xích đu. Cô đã gọi điện tới sở cảnh sát nói chuyện với McCaleb và được biết công ty cung cấp dịch vụ viễn thông cho Loogan đã lần ra tín hiệu cuộc gọi tới khu vực phía tây Ann Arbor, gần ngã tư đường Wagner và Jackson. Tom Kristoll được chôn cất tại một nghĩa trang bên đường Wagner. Loogan đã nói thật. Cô định lái xe tới đó tìm anh, nhưng hẳn là giờ anh đã đi mất rồi. Ngoài ra, McCaleb đã cử xe cảnh sát tới lùng sục khu vực đó.
Khi đi xuống những bậc thang ngoài hành lang căn nhà của Loogan, cô chú ý tới một chiếc xe đỗ bên kia đường, cách đó mấy dãy nhà. Cửa xe phía lái mở ra rồi một người đàn ông xuất hiện - trong một thoáng cô nảy ra ý nghĩ điên rồ đó là Loogan. Cuối cùng cô nhìn ra một người đàn ông lớn tuổi mặc bộ đồ nhăn nhúm, có mái tóc bạc chải hất sang để che chỗ đầu hói: chính là Roy Denham, thám tử thành phố Nossos, New York.
Sau khi đóng cửa, ông ta tựa mình thoải mái bên chiếc xe. Khi cô tới gần, ông ta mỉm cười khiến khuôn mặt trở nên biến dạng với chiếc cằm chảy xệ. Ông ta nói: “Thám tử Waishkey phải không?”.
“Chào thám tử Denham”, cô nói, “Ông đã ở đây bao lâu rồi?”.
Ông ta nhìn đồng hồ. “Gần bốn tiếng”, ông nói, “Tôi muốn làm điều gì đó hữu ích một chút mà không làm vướng chân ai. Có vẻ theo dõi căn nhà của Malone cũng là một ý tưởng hay”.
Elizabeth chớp mắt khi nghe thấy tên thật của Loogan. Cô nhìn qua cửa kính ô tô và nhìn thấy những dấu hiệu về cuộc theo dõi của Denham: phích giữ nhiệt, một chiếc bánh sandwich ăn dở, một tờ báo gập lại với các ô chữ trong mục trò chơi gần như đã được điền kín hết. Không thấy thứ vũ khí nào, mà Denham hình như cũng không đeo bao súng dưới áo khoác.
“Cô khỏi phải lo”, ông ta nói, như thể đọc được suy nghĩ của cô, “Tôi không có súng. Từ hồi nghỉ hưu tôi không mang theo vũ khí nữa. Tôi không có ý định giở trò cao bồi ở chỗ này. Nếu gặp Malone, tôi sẽ gọi anh ta tới đây”, ông ta giơ ra một chiếc điện thoại rồi bỏ nó vào túi, “Công nghệ đấy. Khi tôi còn trẻ chỉ mới có bộ đàm và dùi cui. Giờ chúng ta có roi điện và điện thoại di động”.
Ông hất hàm về phía hành lang nhà Loogan. “Hi vọng cô không phiền nếu tôi hỏi ban nãy cô gọi điện cho ai?”
“Cảnh sát trưởng McCaleb”, Elizabeth nói, “Và trước đó là Loogan - hay Malone, nếu ông muốn tôi gọi thế. Tôi đang cố dụ anh ta lộ diện. Nhưng anh ta có những dự định của riêng mình. Anh ta tin rằng mình có thể tìm ra kẻ đã đâm Michael Beccanti và điều đó sẽ giúp anh biết ai giết Tom Kristoll”.
“Cô tin lời anh ta à - rằng anh ta không phải kẻ đâm Beccanti?”
“Phải. Mặc dù phần lớn mọi người trong sở cảnh sát không nghĩ thế, đặc biệt là sau khi ông xuất hiện và tiết lộ cho chúng tôi biết vụ Jimmy Wade Peltier.”
Denham rút một bao thuốc lá từ túi áo sơ mi, lấy ra một điếu nhưng chưa vội châm lửa. “Chuyện đó có lẽ đã làm cô ngạc nhiên”, ông nói, “Nhưng tôi cũng có ý kiến tương tự như cô. Như tôi đã nói hôm qua, tôi không tin Darrell Malone có thể dính líu vào những vụ như thế này. Tôi không cho rằng anh ta là người có bản tính bạo lực. Chuyện xảy ra đêm đó - trên tầng thượng bãi đỗ xe - chỉ là một tai nạn. Peltier đã gây sự trước”.
Elizabeth nhìn ông ta lăn điếu thuốc giữa hai ngón tay, do dự một chút rồi bỏ lại nó vào túi.
“Ông có chắc những gì mình biết là sự thật không?”, cô hỏi. “Về chuyện xảy ra đêm đó ấy.”
“Ý cô là gì?”
“Tôi đã nghe ông thuật lại sự việc và sau đó xem hồ sơ. Loogan - hay Malone - đã đâm Peltier, rồi Peltier gục xuống. Anh ta không còn là mối đe dọa nữa. Malone đã chạy đi gọi cấp cứu. Sau đó anh ta quay lại và bồi thêm vài nhát nữa cho chắc chắn. Ông có nghĩ mọi chuyện thực sự xảy ra như vậy không?”
Denham ngẩng mặt lên bầu trời đêm, suy nghĩ về câu hỏi này. “Đó là các tình tiết do chính Malone khai, các vết thương cũng tương đồng. Còn có thể là chuyện gì khác được nữa?”
“Tôi thấy không phải chỉ có hai người bọn họ ở đó”, Elizabeth nói. “Còn người phụ nữ nữa - Charlotte Rittenour. Cô ta đã bất tỉnh một lúc, nhưng tỉnh lại đúng lúc Malone đi gọi cấp cứu. Peltier nằm ngay cạnh đó, dao vẫn cắm trên người. Cô ta bị choáng váng và hoảng loạn. Có thể anh ta còn động đậy. Vậy là cô ta ấn mạnh con dao vào anh ta.”
“Rồi sau đó Malone nhận hết tội về mình?”
“Anh ta đã làm một việc cao thượng”, Elizabeth nói, “Anh ta thấy cô ta đã phải chịu đựng vậy là quá đủ rồi”.
Denham uể oải nhìn cô. “Nếu thực sự mọi chuyện xảy ra như vậy thì dễ tha thứ hơn. Nhưng chúng tôi đã lấy lời khai của Charlotte Rittenour, và thẩm vấn Malone kĩ càng. Lời khai của anh ta trước sau như một. Chẳng có lí do gì để cho rằng sự thực không phải vậy.”
Giọng nói khàn khàn vì nghiện thuốc lá của ông ta trầm xuống. Elizabeth có thể nhận ra sự thông cảm trong đó.
Ông nói, “Cô thích Malone. Cũng được. Không có gì phải xấu hổ cả. Tôi cũng thấy thích anh ta. Tôi nghĩ anh ta là người cao thượng, theo một cách rất riêng. Nhưng không thể phủ nhận những gì anh ta đã làm đối với Jimmy Peltier”.
Loogan đi qua gian sảnh trống không và đi thang máy lên tầng sáu. Hai cánh cửa thang máy mở ra và một người đàn ông đang đứng đó chờ đợi, tay xách cặp. Loogan sững người mất vài giây, nhưng người đó ném cho anh một cái nhìn chán chường và tránh sang một bên cho anh đi qua.
Loogan đã cầm sẵn chìa khóa trên tay khi đi tới cửa tòa soạn Gray Streets. Anh nghe ngóng một lúc, tai áp vào cửa kính mờ. Không có ánh sáng hay tiếng động nào từ bên trong.
Anh vặn chìa khóa, bước vào trong rồi khóa cửa lại. Bỏ cặp kính vào túi áo, anh đi tới bàn làm việc của Sandy Vogel và bật đèn lên. Một chồng phong bì đặt trên mặt bàn thấm của cô. Đó là những truyện ngắn do các cây viết tự nguyện gửi tới, có lẽ cũng chẳng xuất bản được.
Ở ngoài rìa bàn thấm đặt một cuốn sổ bìa bọc da: thời gian biểu hàng ngày của Sandy. Loogan mở nó ra và nhìn lướt vài dòng. Phần nhiều là những việc riêng: họp phụ huynh ở trường trung học của con gái cô, một lời nhắc tới đón con trai sau buổi tập của ban nhạc. Tò mò, Loogan giở lại các trang trước tới ngày Tom Kristoll chết. Không có bí mật đen tối nào. Anh lại lật tiếp tới ngày thứ Bảy, ngày 7 tháng Mười một. Đó là ngày mai. Ăn trưa lúc 11 giờ với ban quản lí ở nhà LK.
Anh gập quyển sổ, kéo ghế ngồi và xoay nó chậm rãi trong khi suy nghĩ. Sau đó, anh nhấn nút cách trên bàn phím máy tính của Sandy Vogel và quan sát màn hình bật sáng. Mười phút sau, anh đã có được thứ mình cần và quay lại xe rời khỏi thành phố.
Mặt trăng tròn vành vạnh tỏa sáng trên cao khi Elizabeth rẽ vào con phố trước nhà mình.
Cô đã nói chuyện rất lâu với Denham, trao đổi thông tin, sau đó cô để ông ta ở lại nhà của David Loogan. Ông ta hứa sẽ không nán lại lâu; ông ta sẽ đi kiếm thứ gì đó ăn, sau đó nghỉ ngơi.
Cô hạ cửa kính vài inch khi đi xuống dốc trên con phố, gần như không nhấn ga. Một làn gió mát thổi bay tóc cô. Cô nhìn thấy nhà mình từ xa: bóng cây đu trước nhà, ánh sáng trong hành lang chiếu qua mái hiên và hàng cột lan can. Trong ánh sáng hiện ra hai bóng người. Một người là Sarah, người còn lại rõ ràng là đàn ông. Cô nhận ra ngay đó không phải Loogan. Đó là một thiếu niên cao, gầy, khoảng mười sáu tuổi với mái tóc bù xù. Chính là Billy Rydell.
Hai người ngả vào nhau, Sara vòng tay ra sau gáy cậu ta. Động tác rất thành thục, rõ ràng đây không phải lần đầu tiên. Sau đó, khi hai người hôn nhau, Elizabeth biết đó không phải là nụ hôn đầu.
Cô đặt chân trên bàn đạp phanh. Cần phải cân nhắc kĩ càng. Không nên phản ứng gay gắt quá. Thiếu nữ thì phải có bạn trai chứ.
Chính cô hay nói đùa chuyện yêu đương giữa Sarah và Billy Rydell. Đáng ra cô phải lường trước chuyện này mới phải.
Cô ngoảnh mặt đi, cảm thấy thật kì cục khi quan sát cảnh đó. Nhưng cô cũng không hiểu mình cảm thấy sao khi không nhìn nữa. Cô biết tất cả các lí thuyết về nuôi dạy con cái, tôn trọng sự riêng tư của chúng, tin tưởng con gái cô có thể đưa ra quyết định đúng đắn. Nhưng cũng có những giới hạn nhất định, và việc ngồi trong xe ban đêm kiên nhẫn chờ đợi trong khi con gái cô hôn bạn trai trong hành lang quả thật là quá sức chịu đựng. Chuyện này đã đi quá giới hạn, xuyên qua cả bãi mìn và hàng rào dây thép gai.
Vậy phải hành động thôi. Cô vẫn sẽ lái xe tới đó, để chúng biết cô đã về nhà, sau đấy thì tính sau. Cô ngước nhìn và thấy Billy Rydell đặt tay lên hông con gái mình. Chúng vẫn đang hôn nhau. Elizabeth nhả phanh và để chiếc xe trôi từ từ. Tay Billy luồn dưới áo Sarah. Cậu dồn cô bé lùi lại một bước tới khi lưng cô bé dựa vào cánh cửa. Sarah ngừng hôn và vùng vẫy xoay sang một bên. Cô bé túm lấy cổ tay cậu và đẩy ra.
Cậu tới gần và định hôn một lần nữa, nhưng cô bé đã giơ tay trước ngực để đẩy cậu ra. Cậu làm điệu bộ dang hai tay như thể muốn nói Có gì to tát đâu cơ chứ?
Vậy là cả hai cùng ngoảnh đi. Elizabeth đạp ga rồi phanh gấp. Lốp xe rít trên mặt đường rồi dừng lại chếch với lề đường. Ánh đèn pha chiếu sáng cả bãi cỏ trước nhà. Cô chỉ đủ bình tĩnh để dừng xe nhưng không kịp tắt máy. Cô chồm ra khỏi xe. Billy Rydell thấy cô tới gần. Cậu hiểu được tình thế hiểm nghèo của mình. Cậu định bỏ chạy - Elizabeth có thể đọc được suy nghĩ đó trên khuôn mặt cậu.
Cũng may là cậu không làm thế. Cậu đi xuống cầu thang hành lang, giơ hai tay và nói lời xin lỗi. Cậu chỉ cố tránh ở giây cuối cùng, khi cô vươn tay ra. Cô túm được ngực áo cậu, dùng quán tính xoay cậu lại, dồn cậu lùi ba bước tới khi đâm sầm vào thân cây.
Cú va chạm khiến Billy sợ hết hồn. Mắt cậu mở trừng trừng. Tay trái cô túm chặt lấy lớp vải áo sơ mi của cậu. Tay phải để dọc thân người, đang cầm một khẩu súng. Phải cố gắng lắm cô mới kiềm chế không dí súng vào mạng sườn Billy Rydell.
Cô nghĩ kiểu gì cậu cũng la toáng lên, rồi hàng xóm mở cửa ló đầu ra. Nhưng chỉ có tiếng Billy thì thầm: “Xin lỗi, xin lỗi, xin lỗi, xin lỗi, xin lỗi”.
Giọng cô cũng chẳng to hơn là mấy.
“Cậu đang làm gì thế hả?”, cô nói, “Cậu nghĩ mình đang làm gì?”.