Cách đó một trăm yard, ở đầu bên kia căn hộ của Sean Wrentmore, Elizabeth tới gần một chiếc xe đỗ tách ra cạnh cây táo dại. Người đàn ông trong xe nhìn thấy cô và mở chốt cửa ghế bên.
Roy Denham ngoác miệng cười khi dẹp phích nước và tờ báo khỏi ghế.
“Chào thám tử Waishkey”, ông ta nói, tay phủi vụn bánh mì xuống sàn xe.
“Chào thám tử Denham”, cô nói. “Có dấu hiệu gì của anh bạn ông chưa?”
“Chưa thấy gì cả. Nhưng tôi cũng mới ngồi ở đây được chừng một giờ đồng hồ thôi.”
Elizabeth vào xe và đóng cửa. Trong xe sực mùi khói thuốc, gạt tàn đầy đầu mẩu thuốc lá. Denham hạ cửa kính cho bay bớt mùi.
“Tôi vừa đi từ nhà Loogan tới đây”, Elizabeth nói. “Tôi ngờ là sẽ gặp ông. Ông tới đây làm gì thế?”
Denham chỉ tay vào một cuốn sách bìa giấy đặt trên xe. Là cuốn Chìa khóa của Kendel của Casimir Hifflyn.
“Tôi mua nó từ một hiệu sách cũ để giết thời gian”, ông ta nói. “Nhân vật thám tử, Kendel, đã đi xuyên nước Mĩ để điều tra vụ sát hại một phụ nữ. Cô ta sống một mình, căn hộ của cô ta trống không. Vậy nên anh ta quyết định ở luôn đó thay vì khách sạn.”
Ông chạm bàn tay già nua lên thái dương. “Điều đó khiến tôi nảy ra một ý, và tôi đoán có ít nhất hai căn nhà trống trong thành phố này. Sean Wrentmore sống một mình, và Adrian Tully cũng thế. Tôi quyết định tới đây trước.”
Ông ta hất hàm về phía căn hộ của Wrentmore, một căn nhà một tầng phía cuối tòa nhà xây bằng gạch. Những tấm mành sau hai ô cửa sổ phía trước được đóng kín. Không có chút ánh sáng nào từ đèn hành lang lắp trên cửa ra vào.
“Vẫn chưa thấy động tĩnh gì cả”, ông ta nói và quay mặt về phía Elizabeth. “Cô thì sao rồi? Tối thứ Bảy mà cô vẫn làm việc muộn thế này. Có gì mới không?”
“Anh bạn của chúng ta đang hành động”, cô nói. Sau đó, cô thuật lại vắn tắt chuyện viếng thăm lạ lùng của Loogan tới nhà Kristoll, và cuộc phục kích đang diễn ra tại tòa soạn Gray Streets.
“Chốc nữa sẽ tới lượt tôi phải qua đó”, cô nói. “Nhưng tôi thầm nghĩ liệu Loogan có thể ở nơi nào khác được không? Anh ta đã tới đây cuối tuần trước và nói chuyện với hàng xóm của Wrentmore. Cô ấy đã bắt gặp anh ta ra khỏi nhà Wrentmore. Anh ta có chìa khóa. Đáng ra tôi phải đoán ra điều này từ trước.”
“Chỉ là hú họa thôi mà”, Denham nói, “Có thể anh ta không có ở đây cũng nên”.
“Tuy thế Wrentmore cũng có dính líu tới vụ này. Thậm chí anh ta còn là nguồn gốc của mọi chuyện là đằng khác. “Elizabeth cầm lấy cuốn truyện của Hifflyn.
“Tôi mới nói chuyện với anh ta hôm nay”, cô nói. “Cass Hifflyn ấy. Anh ta đang nắm giữ một bí mật”, cô bỏ cuốn sách xuống khoảng ghế trống giữa hai người. “Anh ta không viết cuốn sách này đâu.”
Denham tỏ vẻ kinh ngạc.
“Wrentmore đã viết nó”, Elizabeth giải thích. “Anh ta và Hifflyn đã có giao kèo với nhau.” Trong khi Denham lắng nghe chăm chú, cô miêu tả lại cuộc gặp gỡ với Hifflyn ở nghĩa trang. Cô nói qua giả thiết của mình về vụ sát hại Tom Kristoll: Kristoll đã che giấu cái chết của Wrentmore như thế nào; chuyện anh ta và Hifflyn cùng bị tống tiền; Kristoll quyết định khai báo với cảnh sát ra sao; Hifflyn đã làm gì để bắt anh ta phải im lặng.
“Hifflyn phủ nhận tất cả những điều đó”, cô nói. “Anh ta khăng khăng giao kèo với Wrentmore chẳng phải chuyện gì to tát, đến nỗi phải giết người để giữ bí mật. Hoặc là tôi đúng còn anh ta nói dối, hoặc là anh ta nói thật còn tôi thì đi chệch hướng quá xa.”
Denham trầm ngâm nhìn vào bóng đêm. “Nhưng không phải chỉ có hai khả năng đó”, ông nói. “Còn một khả năng thứ ba nữa thì sao nhỉ?”
Câu nói này khiến Elizabeth bất ngờ. Một khả năng thứ ba. Cô chăm chú nhìn vào Denham. “Ý ông là gì?”
“Có thể cô đã đúng về lí do Kristoll bị giết nhưng cô đoán sai kẻ giết người. Hifflyn đã nói thật. Một kẻ khác đã giết Tom Kristoll”, Denham hơi nhướng mày. “Wrentmore có còn viết sách cho ai khác không?”
David Loogan leo lên ngọn đồi phía sau căn hộ của Wrentmore. Anh giữ bình xịt hơi cay trong túi và cầm theo khẩu súng trường của Wrentmore, họng súng chĩa xuống đất. Anh trườn qua cửa kính trượt và đóng nó lại sau lưng.
Trong phòng ngủ của Wrentmore hoàn toàn im lặng. Loogan mò mẫm trong bóng tối. Anh nhìn khắp căn nhà trống một lượt và quay lại phòng tắm. Trước đó anh đã ngồi trong xe quá lâu.
Hai phút sau anh đã đứng trước một trong hai cửa sổ phòng khách của Wrentmore. Trước đó anh đã đóng hết mành cửa, nhưng giờ anh vặn cần mở hé chúng một chút để quan sát bãi đỗ xe. Anh đã quen với những chiếc xe của Hifflyn, Hideaway và Shellcross. Không thấy bóng dáng chúng. Đằng xa, phía sau những cành cây xù xì, anh nhìn thấy một người ngồi sau tay lái chiếc xe con không rõ loại nào. Một lúc sau, anh nhìn ra một người nữa ngồi ở ghế bên. Nhưng anh không nhìn rõ mặt họ.
“Nathan Hideaway”, Elizabeth nói.
Tâm trí cô đã ghép nối tất cả các chi tiết. Cô nói thành lời những suy đoán của mình với Ron Denham.
“Vợ của Hideaway đã mất cách đây sáu năm vì bệnh ung thư. Ông ta không làm ăn gì sau đó, ông ta kể với tôi như vậy. Một thời gian sau, Tom Kristoll đã đưa ông ta tới Ann Arbor, dành cho ông ta một công việc ở trường Đại học. Vậy là sự bế tắc trong nghiệp văn của ông ta được gỡ bỏ. Chính Tom đã giới thiệu Hifflyn với Sean Wrentmore. Có thể anh ta cũng làm như vậy với Hideaway.”
Denham lắng nghe chăm chú và gật đầu. Ông ta lấy ra một bao thuốc lá, lôi ra một điếu và rồi ngập ngừng.
“Các mốc thời gian đều trùng khớp”, Elizabeth nói. “Cuộc sống của Wrentmore bắt đầu khá giả lên năm năm trước. Anh ta đã viết ba cuốn truyện cho Hifflyn. Có thể anh ta còn viết một hoặc hai cuốn nữa cho Hideaway. Đáng ra tôi phải đoán ra điều này từ trước.”
“Cô khó tính với bản thân quá”, Denham nói. “Làm sao mà cô có thể lường hết được mọi chuyện như thế.”
Elizabeth nhăn trán. “Hideaway là một ông già dễ gần, tóc bạc, có dáng dấp một người ông. Tôi cho là điều đó đã khiến tôi sao nhãng.”
“Chính những người già mới cần phải cảnh giác”, Denham nháy mắt nói. “Nhưng nếu ông ta phạm tội, cô vẫn cần có chứng cứ. Làm cách nào cô tìm được chúng bây giờ?”
Cô cũng đang tự hỏi mình chính câu đó. “Đầu tiên là những hình xăm”, cô nói. “Wrentmore đã xăm những chữ ‘Gia tài của Kendel’ trên cánh tay. Đó là một tiểu thuyết anh ta đã viết cho Hifflyn. Anh ta có thể còn những hình xăm khác nữa. Chúng ta phải tìm được xác anh ta. Và chỉ Loogan có thể đưa ta tới đó.”
Bỗng nhiên Denham rướn người ra trước, nhìn chằm chằm vào mặt trước căn hộ của Wrentmore. “Tôi tin anh ta đang ở trong đó. Cửa sổ phía bên trái kìa - mành cửa đã được mở ra. Ban nãy chúng bị đóng kín. Tôi đã rình anh ta vào bằng cửa trước. Có thể suốt từ nãy tới giờ anh ta đã ở sẵn trong đó.”
“Có thể anh ấy cũng vừa vào nhà thôi”, Elizabeth nói. “Còn một lối vào phía sau nữa, qua một cửa trượt thông ra sân.”
Những ngón tay Denham mân mê bánh lái. “Tôi có thể vòng ra sau nhà nếu cô muốn. Cô và tôi sẽ cùng bắt anh ta ngay bây giờ.”
“Bình tĩnh nào, Roy”, cô nói. “Để tôi gọi yểm trợ đã. Phải làm đúng quy trình. Tôi e rằng ông sẽ phải ngồi chờ đấy.”
Denham ném cho cô một nụ cười khiêm nhường. “Có lẽ cô nói đúng”, ông thở dài và đút tay vào túi trong của chiếc áo khoác nhàu nhĩ. “Cô có muốn dùng điện thoại của tôi không?”
“Tôi có mang theo đây”, nó nằm trong túi áo khoác của cô. Khi cô cầm lấy nó, điện thoại bắt đầu đổ chuông.
Cùng lúc đó, bàn tay của Denham rút ra khỏi túi áo khoác, cầm một thứ hoàn toàn không phải điện thoại di động. Cô chỉ kịp nhận ra: Roi điện. Sau đó một dòng điện chạy khắp cơ thể cô, chiếc điện thoại tuột khỏi tay. Cô thét lên đau đớn.
Carter Shan bật dậy. Anh ta đã nán lại Tòa thị chính để làm nốt vài thứ giấy tờ rồi sau đó nằm ngủ trong phòng nghỉ của Phòng điều tra. Giờ anh bật thẳng dậy trên chiếc ghế nệm rách tả tơi và đặt chân xuống sàn.
Alice Marrowicz, người mới chỉ vừa chạm vào vai anh, giật mình lùi lại phía sau. Đáng ra cô phải bật đèn lên mới đúng. Đánh thức một người đàn ông có vũ khí trong bóng tối thật chẳng sáng suốt chút nào. “Xin lỗi”, cô nói.
Cô đi lại phía tường và bật công tắc. Bóng đèn huỳnh quang kêu ù ù trên đầu hai người.
Shan chớp chớp mắt. “Có chuyện gì thế?”
“Tôi không dám chắc.”
“Tới một giờ đêm chưa?”
“Có chuyện gì lúc một giờ à?”
“Alice”, anh sốt ruột kêu lên. “Tôi có thể làm gì giúp cô đây?”
Cô ngập ngừng một chút, lựa lời nói trong đầu. “Tôi đã gọi tới nhà thám tử Waishkey. Cô ấy không trả lời điện thoại di động. Và cũng chẳng có ở nhà - con gái cô ấy đã nhấc máy.”
“Cô cần tìm cô ta có việc gì?”
“Là về chuyện David Loogan - hay Darrell Malone.”
Shan tỉnh hẳn ngủ. “Tôi đang nghe đây.”
“Hôm thứ tư,” Alice nói, “thám tử Waishkey đã yêu cầu tôi tìm hiểu thông tin về David Loogan. Đó là trước hôm ông cảnh sát từ New York xuất hiện - Roy Denham ấy. Trước đó chúng ta đã có được địa chỉ nhà Loogan ở Cleveland và tên người chủ nhà”.
“Vậy là sáng thứ Năm tôi liên lạc với người chủ nhà và được biết Loogan đã tới Cleveland từ Philadelphia. Ông ta đã cho tôi địa chỉ của Loogan ở Philadelphia và tên người phụ nữ cho anh thuê nhà. Tôi gọi điện cho cô ta, nhưng chỉ được nối tới hộp thư thoại.”
Cô quan sát khuôn mặt Shan, sự sốt ruột của anh ta hình như càng tăng thêm. Cô kể nhanh hơn: “Thế rồi Denham tới vào chiều thứ Năm và nói ông ta biết Loogan là ai, gốc gác anh ta ở đâu - ở Nossos, New York. Vậy nên tôi không liên lạc với người phụ nữ ở Philadelphia vì coi việc đó giờ không cần thiết nữa...”.
Anh ngắt lời cô. “Tóm lại là sao thế, Alice?”
“Cô ấy gọi tôi hôm nay. Cô ấy đi nghỉ và giờ mới đọc tin nhắn của tôi. Cô ấy tò mò muốn nghe tin từ cảnh sát về Loogan. Có lẽ cô ấy muốn nghe vài chuyện giật gân, tôi đoán thế. Dẫu vậy, cô ấy đã nói cho tôi biết một điều lạ lùng về anh ta - anh ta đã thay đổi tên.”
Shan thả lỏng người trên chiếc ghế rách. “Trời, ai chẳng biết chuyện đó. Hồi ở New York anh ta là Darrell Malone và sau đó anh ta bắt đầu dùng tên David Loogan.”
“Đó là từ khi anh ta thuê nhà của cô ấy”, Alice nói. “Trong hợp đồng thuê nhà lần đầu, anh ta kí tên là Darrell Malone. Trong hợp đồng thứ hai, anh ta lại ghi là David Loogan. Anh ta đã đổi tên, hoàn toàn hợp pháp.”
Cặp mắt Shan nheo lại. “Nghe chẳng hợp lý chút nào.”
“Anh ta đã đưa cho cô ấy xem giấy tờ đàng hoàng”, Alice nói. “Một bản sao của lá đơn yêu cầu, được duyệt bởi tòa án. Cô ấy sẽ tìm lại nó trong đống giấy tờ của mình và gửi cho tôi một bản sao qua fax.”
“Trời đất.”
“Làm sao mà anh ta làm thế được đúng không? Nếu thực sự anh ta là một kẻ đào tẩu?”
Tờ Tribune ở Nossos có trang web nhưng không lưu các số báo trên đó. Carter Shan gọi tới văn phòng thành phố và nhận được số của người phóng viên đã viết bài đưa tin về vụ giết người. Cô ta đã viết bài về vụ Malone khi mới bước chân vào nghiệp báo, và sau vài câu tán tỉnh - anh đã cắt ngang buổi hẹn hò tối thứ Bảy của cô ta - cô ta nói cho anh biết tất cả về Darrell Malone.
Malone đã bị truy tố chín năm trước vì tội đâm chết Jimmy Wade Peltier. Đó là sự thật. Nhưng anh ta chưa từng trốn chạy. Anh ta đã bị đưa ra tòa với tội danh giết người cấp độ hai, và bồi thẩm đoàn không thống nhất được bản án. Người phóng viên nói rằng mình được biết chín trong số mười hai người trong bồi thẩm đoàn đã bỏ phiếu tha bổng cho bị cáo. Bên nguyên từ chối tiếp tục một phiên xử nữa. Darrell Malone đã được tự do.
Owen McCaleb nghe tin với vẻ cứng rắn. Ông đứng cạnh cửa sổ văn phòng, mắt nhìn ra bóng tối bên ngoài.
“Có ai là thám tử Roy Denham ở sở cảnh sát Nossos không?”, ông ta hỏi Shan.
“Có. Ông ta đã chết hồi năm kia do một cơn đau tim.”
“Vậy gã Denham mà chúng ta đã nói chuyện cùng...”
“Là James Peltier”, Shan nói. “Cha của Jimmy Wade. Người phóng viên đó đã miêu tả lại ông ta. Cô ta đã phỏng vấn ông ta vài lần trước và sau phiên xử Malone. Ông ta không hài lòng chút nào với phán quyết của tòa.”
Sự nghiêm trọng của vụ việc thể hiện rõ nơi McCaleb. Nó lộ ra trong dáng dấp của ông - dường như mọi sinh lực đã bị rút kiệt khỏi con người này.
“Hắn đã cho tôi xem một tấm thẻ nhận dạng”, McCaleb nói yếu ớt.
“Theo lời người phóng viên nọ, ông ta sở hữu một cửa hàng in ấn trong ba mươi năm”, Shan nói. “Ông ta hoàn toàn có thể làm một tấm thẻ giả.”
“Tôi tin chắc hắn được vợ tiếp tay. Một tay bợm già lão luyện. Hắn đóng vai cảnh sát cũng khá đấy chứ.”
“Họ đã lên kế hoạch tỉ mỉ. Bà ta gọi điện báo cho ông biết rằng ông ta đang tới. Vậy là ông ta xuất hiện đúng lúc. Tập hồ sơ được gửi qua fax xua tan mọi hoài nghi. Còn gì mà nghi ngờ nữa? Tuy vậy, tập hồ sơ này có lẽ là thật. Người phóng viên nói ông Denham thật khi còn sống là bạn của James Peltier. Đó không phải lần đầu một thám tử cảm thông với một người cha bất hạnh. Có thể Peltier đã hỏi xin một bản sao của tệp tài liệu và lưu trữ nó cẩn thận. Sau đó chỉ cần chỉnh sửa đi một chút để khiến vụ việc có vẻ như Malone đã trốn đi trước phiên xử. Có lẽ vợ ông ta đã lo liệu việc này, sau khi Peltier cho bà biết mình cần gì.”
“Vậy cái gì đã dẫn họ theo dấu Loogan?”, McCaleb hỏi. “Làm sao họ biết anh ta đang ở đây?”
“Tôi chưa dò ra được chuyện đó, nhưng có lẽ là đúng theo lời Denham hay đúng hơn là Peltier, đã miêu tả. Loogan đi mua một chiếc xẻng. Người thu ngân nhận ra anh ta vì trước đây họ học cùng trường. Cô ta kể về anh ta với chị gái - người này thay vì thông báo với cảnh sát, đã nói lại với Peltier.”
McCaleb cố lấy lại bình tĩnh và ngoảnh mặt khỏi cửa sổ. “Được rồi”, ông nói. “Tôi sẽ gửi quân tới khách sạn của James Peltier. Để xem chúng ta có thể tóm được hắn không. Anh nên gọi Elizabeth về đi. Chắc chắn là cô ấy muốn nghe chuyện này đấy.”
Shan rút điện thoại ra và bấm số của Elizabeth. Anh được nối tới hộp thư thoại của cô, và bắt đầu cảm thấy băn khoăn vì anh nhớ ra Alice cũng đã thử gọi cô mà không thấy trả lời. Anh để lại lời nhắn rồi bấm số nhà riêng của Elizabeth. Cuộc nói chuyện với Sarah chẳng khiến anh an tâm hơn chút nào.
Anh quay lại phía McCaleb. “Lizzie không nhấc máy. Cô ấy gọi cho con gái lúc bảy giờ mười lăm phút, nói rằng mình có vài việc vặt cần giải quyết. Từ đó tới giờ không ai liên lạc được với cô ấy cả.”
McCaleb nhăn mặt. Họ đều biết rõ lúc nào Elizabeth cũng mang điện thoại đi động theo người. Vậy nên giờ đột nhiên không liên lạc được với cô thật là điều kì lạ.
“Có gì không ổn đây”, McCaleb nói. “Nhưng tôi không muốn tin như vậy. Không phải đêm nay. Chúng ta cần tìm được cô ấy. Tôi cần anh làm cùng với Harvey Mitchum vụ này. Tôi sẽ gọi cho anh ấy và báo rút hết quân khỏi tòa soạn Gray Streets.”
“Rõ.”
McCaleb ngồi ngả trên ghế sau bàn làm việc. “Có thể điện thoại của cô ta bị hỏng”, ông nói với vẻ khao khát. “Biết đâu cô ấy chỉ đi làm mấy việc vặt thôi. Anh có nghĩ vậy không?”
Shan lúc đó đang rời khỏi phòng. Anh nói, chân vẫn rảo bước: “Không”.
“Tôi cũng thế.”