Súng nổ khi Hideaway ngã xuống.
Một tia lửa màu cam vọt ra từ họng súng, tiếng nổ chói tai vang lên như đại bác giữa bãi trống. Elizabeth luồn được chân xuống phía dưới, dựa mình vào cây bu lô mà đứng lên.
Cô lao bốn bước tới miệng hố. Ở đó cô thoáng thấy Hideaway quờ quạng trên vách hố phía bên kia, khẩu súng vẫn nằm trong tay ông ta. Khi đó ông ta đang quỳ trên đầu gối, Loogan ngồi trong tư thế bị đè dưới chân ông.
Cô chỉ kịp nhìn có thế và sau đó không lấy đà, cô nhảy xuống hố, hai chân đạp thẳng vào vai Hideaway. Cẳng tay bị còng khiến cô không có hi vọng giữ được thăng bằng. Cô ngã ngửa ra sau, va rất mạnh vào vách đất gồ ghề. Liền sau đó, cô nghe thấy một tiếng rắc, quá nhỏ so với tiếng súng: vai trái cô bị trật khớp. Cơn đau thật khủng khiếp.
Mọi thứ trước mắt cô trở nên tối sẫm. Khi đã có thể nhìn trở lại, cô thấy dưới chân mình, Nathan Hideaway đang bấu tay xuống đất cố gắng dùng cẳng tay chống thân mình lên và sử dụng khẩu súng. Cô giơ chân phải đạp giữa mặt ông ta khi ông ta xoay người nhìn cô. Ông ta tránh được, gắng nhổm dậy trên cẳng tay và đầu gối.
Cô co chân lần nữa, đạp vào sau gáy mái đầu bạc. Mặt ông ta cắm xuống đất.
Khẩu súng ổ xoay rơi xuống, nổ một tiếng trầm dưới đất. Đôi vai rộng của Hideaway lại nhổm dậy. Elizabeth đạp vào gáy ông ta cú nữa trong khi Loogan vùng vẫy bên dưới, đã rút được một chân ra mà đạp vào mạng sườn ông ta. Thế rồi Elizabeth đặt cả hai chân sau cái cổ to lớn của Hideaway, nhấn gót giày lên xương sọ ông ta và ép thân mình vào vách đất phía sau. Cô ấn mặt ông ta sâu xuống mặt đất, cả cơ thể ông ta run lên co giật. Cô vẫn tiếp tục ấn, mặt ông ta cắm xuống đất. Phía trên, chiếc đèn pin đung đưa trên cành cây trong khi mặt trăng rọi sáng. Bên dưới, Nathan Hideaway gục xuống nền đất đen.
Giọng Loogan nói: “Elizabeth. Lão ta chết rồi”.
Cô nhấc chân lên chậm chạp, mắt dán chặt vào khẩu súng nằm lẫn trong đất. Cô lui chân dọc theo xương sống của Hideaway, dựa lưng vào thành hố gồ ghề mà đứng lên. Khi cô bỏ chân khỏi xác Hideaway, Loogan rút cẳng chân đang bị đè rồi lảo đảo đứng dậy. Anh cúi xuống xác Hideaway và lục soát túi quần túi áo ông ta. Anh tìm được chùm chìa khóa của Hideaway và những chìa ông ta đã lấy của James Peltier.
Tựa trên thành hố, Elizabeth nói: “Lấy khẩu súng đi”.
“Tôi không cần nó.”
“Không thể để nó trong tay lão như vậy được.”
Loogan trườn mình lên thành hố, ném khẩu súng lên bãi cỏ phía sau cô. Sau đó, anh quỳ xuống và dùng chùm chìa khóa của Peltier mở khóa còng.
Anh nắm lấy cẳng tay để giúp cô leo lên. Cơn đau nhói lan khắp cơ thể cô.
“Đợi đã”, cô nói. “Tôi chắc là mình bị trật khớp vai rồi.“ Nước mắt cô trào ra và cô nhắm mắt lại. “Có thể chữa được”, cô nói. “Không khó đâu.”
Cô nghe thấy tiếng chùm chìa khóa kêu leng keng khi anh bỏ nó vào túi rồi quỳ xuống bên cô.
“Cô đùa đấy à?”, anh nói.
“Giờ tôi sẽ nằm ngửa. Anh gập khuỷu tay tôi lại - tự tôi không thể cử động được. Gập nó thành một góc chín mươi độ, sao cho ngón tay chĩa thẳng lên trời. Sau đó anh chỉ cần kéo cả cẳng tay về phía mình.”
Giọng anh lộ rõ vẻ lo lắng: “Đó không phải ý hay đâu”.
“Anh cứ kéo nhẹ tay và xoay nó ra trước, như thể tôi đang ném một quả bóng chày vậy. Tôi đã từng thấy người ta làm thế.”
Cô mở bừng mắt. Anh bắt đầu đứng dậy. “Tôi sẽ chở cô tới bệnh viện.”
Cô vặn mình dùng tay phải nắm lấy cổ tay anh. “Sao đúng lúc này anh lại yếu đuối thế?”
Elizabeth lái chiếc Lincoln của Hideaway bằng một tay, tay kia đặt trên đùi. Cô nhấc cẳng tay lên để đảm bảo mình vẫn có thể cử động nó. Cơn đau đã gần dứt hẳn.
Cô nhìn sang Loogan ngồi ở ghế bên. Anh dựa đầu ra sau, cô có thể nghe rõ tiếng anh thở. Có vẻ anh đã kiệt sức.
“Lúc nãy”, cô nói khi cả hai đã đi được một dặm. “Huyệt mộ đó...”
Cô bỏ lửng câu hỏi ở đó.
Anh chậm rãi ngồi nhỏm dậy, thong thả trả lời. “Mấy cái hố kiểu này bao giờ cũng khó lường. Nền đất ở đó không ổn định.”
“Nó không thể tự sụp xuống như thế được.”
“Tôi đã làm thế bằng cách đào đất bên dưới.” Lốp xe của chiếc Lincoln nghiến trên mặt đường nhựa. “Đó là sai lầm của lão. Đáng ra lão ta không nên đưa cho tôi cái xẻng đó.”
Elizabeth vòng xe qua một khúc cua. “Tôi chẳng thể ngờ nổi kế hoạch đó. Lúc trước anh nói sẽ bắn lão ta mà.”
“Tôi chỉ nói là mình có thể phải bắn lão thôi.”
Họ tới một ngã tư, đèn chuyển từ vàng sang đỏ. Elizabeth dừng xe mặc dù quanh đó chẳng còn chiếc xe nào khác.
“Cũng gần tới bệnh viện rồi, phải không?”, Loogan hỏi cô.
Cô ngắm nhìn bóng đèn đỏ bất động. “Tôi sẽ không tới bệnh viện. Chỗ trật khớp đó để sau cũng được.”
“Tôi cho là chúng ta nên tới đó”, anh nói.
Đèn chuyển màu xanh. Cô quay lại phía anh. Anh đang khoanh tay trước ngực, nắm tay phía dưới cánh tay.
“Tôi đã nhầm”, anh nói.
Anh thôi khoanh tay. Những ngón tay phải của anh giơ ra vấy máu.
“Tôi cứ tưởng lão đã bắn trượt.”
David Loogan tự bước vào phòng cấp cứu bệnh viện Sain Joseph Mercy. Khi cánh cửa kính đóng lại phía sau, ánh đèn neon trên trần bỗng trắng lóa. Anh ho lên bàn tay, nhìn thấy máu, cảm thấy chân mình khuỵu xuống.
Viên đạn bắn ra từ súng của Hideaway bay trúng một mảnh đá trên vách hố. Nó bật nảy trên đó, xuyên qua người Loogan phía bên trái ngay dưới cánh tay. Viên đạn sượt qua xương sườn, bẹp rúm, xuyên qua phổi anh và ngừng lại cách tim có một inch.
Khi bác sĩ cấp cứu tới, họ chẩn đoán phổi trái anh đã xẹp xuống. Họ luồn ống vào lồng ngực và bơm khí vào phổi anh. Sau đó, anh cần phải được phẫu thuật để xử lí những tổn thương bên trong. Bác sĩ phẩu thuật phản đối việc gắp viên đạn ra - nó có thể nằm nguyên ở đó mà không gây hại gì cả.
Nhiều giờ sau ca phẫu thuật, Loogan vẫn choáng váng vì thuốc mê. Các y tá thỉnh thoảng lại tới kiểm tra chức năng phổi. Họ yêu cầu anh thổi vào một cái ống. Sau đó họ quan sát anh thở, để ý xem có đờm không. Họ đánh thức anh dậy vào những giờ kì quặc để vỗ lên ngực.
Chiều Chủ nhật anh được gặp Elizabeth vài phút, đến tối thứ Hai thì lâu hơn một chút. Cô kể với anh Casimir Hifflyn cùng vợ anh ta đã bị bắn chết tại nhà với hiện trường được dàn dựng cho giống một vụ giết người rồi tự sát. Cô miêu tả lại cho anh mảnh giấy viết tay, lời thú tội giả. Cô chẳng cần nhắc lại những gì Hideaway đã nói: Nhưng điều đáng ngạc nhiên là một người đàn ông sẵn sàng làm bất kì điều gì nếu ta đe dọa tước đi thứ anh ta yêu quý. Thí dụ nói với người đó ta sẽ bắn chết vợ anh ta, và thế là anh sẽ nhận những tội ác mình không hề dính líu tới.
Ngày hôm sau, có hai người tới thăm Loogan. Người thứ nhất là Sarah Waishkey, tới khi anh đang ngủ trưa và tặng anh một món quà chính tay mình làm: một vòng tay tết bằng da.
Vị khách thứ hai là một cảnh sát có tên là Mitchum. Loogan tản bộ cùng anh dọc hành lang bệnh viện, kể lại mọi thứ Nathan Hideaway đã nói và làm kể từ lúc xuất hiện trong căn hộ của Sean Wrentmore. Mitchum đào sâu từng chi tiết, từ phát súng giết chết James Peltier tới những diễn biến cuối cùng bên huyệt mộ trong bãi đất trống Công viên Marshall. Loogan nhấn mạnh rằng Hideaway vẫn cầm chặt khẩu súng khi ngã xuống hố. Cho tới phút cuối ông ta vẫn là mối đe dọa. Elizabeth làm vậy hoàn toàn để tự vệ. Mitchum chỉ gật đầu: “Tôi không phản đối đâu”.
Một ngày nữa trôi qua cho tới khi Loogan gặp lại Elizabeth. Họ ngồi bên cửa sổ phòng bệnh, bầu trời màu xám của tháng Mười một hiện ra loáng thoáng sau khe mành. Cô kể lại cho anh về chuyến đi của mình tới nhà Nathan Hideaway. Cô cùng với Carter Shan đã lục soát đồ đạc của Hideaway và tìm được lá thư tống tiền giống như của Tom Kristoll. Trong hầm rượu bên dưới căn nhà, họ tìm được một bồn tắm cũ bằng sắt nung và dấu vết dung dịch kiềm. Họ cho rằng xác Sean Wrentmore đã bị thủ tiêu trong chiếc bồn tắm này.
Giờ da thịt xương cốt anh ta mỗi thứ một nẻo rồi, Hideaway đã nói vậy.
“Có thể chúng ta sẽ chẳng bao giờ tìm được hài cốt anh ta”, Elizabeth nói với Loogan. “Tôi đoán chúng đã bị ném vào một chiếc túi rồi nhấn chìm dưới đáy hồ sau nhà ông ta. Nhưng hôm qua chúng tôi đã cử thợ lặn tới. Không tìm thấy gì cả.”
Cô còn kể thêm vài tin tức nữa. Cảnh sát đã bắt giữ một người dính líu tới vụ sát hại Michael Beccanti.
“Đó là Rachel Kent”, cô nói. “Chúng tôi tìm được tay thám tử tư cô ta đã thuê để theo dõi Bridget Shellcross. Anh ta xác nhận mối tình giữa Beccanti và Shellcross - và Kent đã biết được chuyện đó.”
“Ngoài ra cũng còn vài chứng cứ xác thực khác. Đó là những vết máu và mảnh da rất nhỏ. Cô ấy đã bị xước cánh tay khi leo qua tấm rèm cửa sổ bị rạch ở nhà anh. Phòng xét nghiệm đã tìm được mẫu từ chiếc rèm hôm thứ Sáu. Nhóm máu trùng với cô ta, sau cùng cả xét nghiệm ADN cũng xác nhận cô ta là thủ phạm. Nhưng điều đó chẳng còn quan trọng, Rachel Kent đã nhận tội chiều nay. Chúng tôi qua đó yêu cầu cô ta tự nguyện để lại mẫu máu nhưng cô ta từ chối. Hai giờ sau cô ta trở lại Tòa thị chính cùng luật sư. Cô cầm theo chiếc đĩa và lá thư tống tiền mình đã cướp khỏi tay Beccanti sau khi đâm chết anh ta. Luật sư của cô ta cho rằng có thể dùng vật đó để thương lượng. Và đúng là như thế. Theo những gì tôi được biết, công tố viên đã thỏa thuận sẽ nhẹ tay với cô ta.”
Loogan nhìn ra ngoài bầu trời xám xịt. “Là Rachel Kent”, anh nói.
“Là Rachel Kent”, Elizabeth nhắc lại. “Hideaway đã nói thật.”
Vào buổi sáng ngày thứ Bảy sau ca phẫu thuật, David Loogan bước ra khỏi bệnh viện Saint Joseph Mercy. Anh mặc một chiếc quần kaki mới cùng áo sơ mi xanh da trời, khoác chiếc áo bò để chống lại cái rét của tiết trời tháng Mười một. Anh đã bỏ lại chiếc áo khoác da trong khu rừng ở công viên Marshall.
Mấy món quần áo mới này là quà tặng của Bridget Shellcross, người vừa tới thăm anh hôm qua. Họ đã nói với nhau về chuyện Cass Hifflyn và Beccanti, người mà cô ta vừa mới dự đám tang hồi đầu tuần.
Cô ta để lại cho Loogan số điện thoại của mình, bắt anh phải hứa sẽ gọi lại khi được xuất viện. Cô ta sẽ chở anh về nhà. Mảnh giấy ghi số điện thoại đó giờ đang nằm trong túi anh. Anh bắt một chiếc taxi.
Người tài xế dừng lại trước căn nhà anh thuê. Trên cửa vẫn dán băng niêm phong màu vàng. Anh xé nó đi, bước vào nhà và mở hết các cửa sổ. Sau đó, anh lên gác lột ga giường ra, thay ga và chăn mới rồi ngủ li bì tới tận gần tối.
Khi tỉnh giấc, anh thấy bụng đói meo. Anh đi tắm, đóng các cửa sổ, khóa cửa ra vào và bước xuống bậc thềm với chùm chìa khóa xe leng keng trong tay. Tới lúc đó anh mới nhớ ra lần cuối cùng anh nhìn thấy ô tô của mình là trong bãi đỗ xe ở quán ăn sau căn hộ của Sean Wrentmore.
Anh đi bộ qua mười hai dãy nhà hướng vào trung tâm thành phố, cố ý đi thật chậm. Anh ăn tối sớm ở một quán ăn hồi trước anh đã từng tới cùng Tom Kristoll. Sau đó anh đi xem phim, một bộ phim của Pháp cũng khá hài hước.
Anh bước ra khỏi rạp chiếu phim lúc hơn chín giờ một chút. Một đám sinh viên tụ tập trên vỉa hè. Anh tản bộ về hướng tây dọc theo phố Liberty, đi ngang qua những ngân hàng, quán ăn, phòng triển lãm. Rồi anh tới phố Main, chờ đèn hiệu băng qua đường. Khi đó nếu muốn về nhà, anh phải đi về hướng nam. Nhưng anh ngược lên phía bắc.
Bên ngoài quán café đối diện tòa nhà Gray Streets, một nhóm sinh viên đi lảng vảng. Tất cả đều đeo khuyên ở mũi, tóc nhuộm xanh đỏ, hút thuốc như ống khói. Loogan đi ngang qua chỗ họ, đứng xa khỏi đám khói thuốc và tựa mình vào cửa sổ quán café. Từ bên này đường, anh ngước nhìn cửa sổ tầng sáu của tòa nhà. Ánh sáng tỏa ra qua ô cửa sổ chữ nhật. Đột nhiên, một bóng đen thoáng bước ngang qua cửa sổ. Loogan thấy nó giống bóng dáng một người đàn ông đội mũ phớt.
David Loogan lao qua bên kia đường, tránh dòng xe cộ trong khi tay lần tìm chìa khóa. Anh vẫn còn nghe thấy hồi còi xe inh ỏi kéo dài vang lên phía sau mình khi chạy qua cửa ra vào, đập tay vào nút bấm thang máy. Anh lao vụt đi trong hành lang tầng sáu và đâm sầm vào cánh cửa mạnh đến nỗi làm nứt cả tấm kính mờ. Anh mở khoá, và thứ đầu tiên anh thấy là hành lang dẫn thẳng tới văn phòng của Tom Kristoll. Chiếc đèn bàn bật sáng, và đằng sau, một bóng người đứng lên khỏi ghế. Chính là Laura Kristoll.
Cô cởi bỏ chiếc mũ của Tom khi đi vòng qua bàn. Tuy thế, cô vẫn mặc chiếc áo khoác dài. Nó khiến hai vai cô nhìn vuông hơn.
“David, anh ổn chứ?”
Cô gặp anh trong văn phòng bên ngoài, đặt tay lên ngực anh nhẹ nhàng như thể sợ rằng nếu mình mạnh tay sẽ xé toang lồng ngực anh.
“Anh ổn.”
“Em không thích thấy anh thở như thế”, cô nói.
“Đôi lúc chính anh cũng không thích.”
“Em tưởng anh vẫn còn trong bệnh viện. Anh tới đây làm gì thế?”
“Ban nãy lúc đứng dưới phố anh nhìn thấy bóng em. Anh tưởng rằng...”
“Gì thế?”
“Anh không biết.”
Cô cúi xuống nhìn chiếc áo khoác dài và chiếc mũ phớt cô đã bỏ trên bàn thư kí. “David à”, cô nói.
“Đây chẳng phải lần đầu anh nghĩ tới điều đó”, anh nói. “Ý anh là điều gì khiến anh tiếp tục theo đuổi mọi chuyện? Anh đã thực sự tận mắt nhìn thấy gì? Một xác người trên phố, chăn trùm kín. Sau đó là một chiếc quan tài được hạ xuống huyệt. Nếu đây là một câu chuyện...”
“David...”
“Nếu đây chỉ là một câu chuyện trinh thám, Tom sẽ xuất hiện đúng màn cuối cùng. Rồi anh ta sẽ giải thích mọi điều. Đúng ra chúng ta sẽ đi uống ở một nơi yên tĩnh và anh ấy sẽ kể...”
Những ngón tay cô nắm chặt lấy cổ áo bò của anh.
“Đừng, David”, giọng cô yếu ớt. “Tom chết rồi.”
Anh về nhà cùng cô. Cả hai im lặng trong khi cô lái xe dọc theo bờ sông. Họ đi qua lối đi dài dẫn tới nhà và bước ra khỏi xe. Anh bước theo cô trên con đường trải đá vụn, qua ngưỡng cửa vào nhà. Cô mời anh một ly, anh chỉ uống nước trắng. Sau đó, cô mời anh ngồi xuống ghế sofa rồi bắt đầu nhóm lửa trong chiếc lò kiểu cổ.
Cô đóng cánh cửa lò bằng sắt và tới ngồi bên anh. Hai người im lặng một chốc. Đầu cô ngửa ra sau, mái tóc vàng buông xõa trên lớp da bọc ghế màu đen. Còn anh thì ngẩng lên nhìn những dầm gỗ chăng ngang dọc trên đầu.
Một lúc sau, cô nghiêng người lại gần anh và theo phản xạ, anh định choàng tay quanh người cô. Anh co rúm lại đau đớn vì đã cố gắng quá sức.
“Vết thương có nặng lắm không?”, cô hỏi anh.
“Không sao đâu. Chỉ hơi căng cơ một chút thôi.”
Ngọn lửa nổ lách tách trong lò sưởi.
“Đáng ra em phải tới bệnh viện thăm anh”, cô nói. “Lúc trước em đã giận anh, nhưng lí do đó chẳng chính đáng chút nào. Em đã gặp rất nhiều khó khăn để nguôi ngoai sau những gì anh nói với em đêm đó trong xe cạnh nhà Sean, hỏi em có biết ai đã giết Tom không.”
“Đáng lẽ anh không nên hỏi em câu đó”, anh nói.
“Nó khiến em tổn thương”, cô nói. “Nhưng em cho là mình xứng đáng bị thế, vì cứ lẩn tránh không chịu nói lên sự thật về những gì đã xảy ra với Sean. Đáng lẽ em phải nghĩ nhiều hơn tới Tom và ít hơn tới những gì chính mình mong muốn. Giờ em thấy mình thật là kì quặc khi cứ khăng khăng tin rằng có thể xuất bản tập bản thảo của Sean. Em đã từ bỏ hẳn ý định đó rồi. Em muốn anh biết điều đó.”
Ánh lửa hắt những chiếc bóng run rẩy lên trần nhà.
“Em sẽ đưa nó cho anh, nếu anh muốn. Nó đang nằm ở đây, trong một chiếc hộp đặt ở văn phòng của Tom. Cả bản in, các đĩa CD và bản sao dự phòng. Em không muốn giữ nó nữa”, cô nói.
Anh thở dài một tiếng. “Em không cần phải làm thế, Laura. Chính em đã chỉnh sửa nó. Nó là của em. Anh sẽ không kết tội em vì muốn xuất bản nó đâu.”
“Em không muốn dính líu gì tới nó nữa”, cô nói, “Anh có thể lấy nó đi”, cô hất hàm về phía lò sưởi. “Hoặc chúng ta đem đốt nó.”
“Chúng ta không cần phải đốt nó đâu.”
Nửa đêm, cô dẫn anh vào phòng ngủ dành cho khách trên gác. Anh chất quần áo của mình lên ghế, chui vào chăn rồi nằm trong bóng tối mà lắng nghe những chuyển động của cô trong một phòng khác: tiếng cửa tủ lạch cạch, tiếng nước chảy. Sau đó ánh đèn bật sáng trong hành lang, cô bước qua ngưỡng cửa vào phòng trong bộ đồ ngủ bằng vải flannel rồi trèo vào bên cạnh anh, cuộn mình ôm một chiếc gối mà ngủ.
Anh thức giấc trong đêm và lắng nghe tiếng cô thở. Sau đó, anh trườn khỏi giường mò mẫm tìm đồng hồ đeo tay: ba giờ hai mươi phút. Anh xuống bếp mở vòi hứng một cốc nước. Anh đứng uống nước ngoài trời trên mặt đá khoảng sân sau có rừng bao phủ xung quanh.
Sau đó anh trở vào nhà, đi qua các phòng dưới nhà tới khi đến được văn phòng của Tom. Vật hình vuông đặt trên bàn chính là chiếc hộp Laura đã nhắc đến. Anh bật đèn bàn, những chiếc đĩa phản chiếu sắc bạc trong ánh sáng. Anh gạt chúng sang một bên, và chúng trượt trên nhau để lộ ra trang đầu cuốn bản thảo của Sean Wrentmore: Những kẻ dối trá, lũ trộm cắp và những người vô tội.
Anh đếm số đĩa, có bảy chiếc. Quá nhiều bản sao dự phòng. Nhưng một tiếng nói nhỏ trong tâm trí anh đoán chắc rằng nếu đã có bảy chiếc đĩa ở đây, hẳn là còn chiếc thứ tám nữa.
Anh lục sơ qua bàn làm việc và tìm thấy ngăn kéo mà Michael Beccanti đã kể với mình: ngăn kéo có một ô trống phía dưới. Trong đó chẳng có gì cả. Không thấy chiếc đĩa thứ tám.
Anh tắt đèn trong văn phòng và đi sang phòng khách. Trong lò sưởi, ngọn lửa đã tắt. Anh kiểm tra lại cửa trước một lần nữa để đảm bảo nó đã được khóa, anh làm tương tự với cửa sau và cửa thông ra sân. Trong nhà Kristoll, tất cả đều an toàn. Khi hướng về cầu thang, anh sực nhớ ra cửa mở vào garage.
Anh tới kiểm tra cánh cửa này và thấy nó không khóa. Một điều gì đó đã thôi thúc anh mở cửa, bật công tắc đèn trần. Bóng đèn tỏa ánh sáng trắng toát lạnh lẽo lên chiếc xe Ford của Tom. Trên tường treo một mớ dụng cụ làm vườn: một cái cào, kéo cắt cỏ. Ba chiếc xẻng, tất cả đều có cán dài, không phù hợp để đào huyệt mộ.
Các vật dụng khác đều khá quen thuộc: chiếc máy cắt cỏ trong một góc, một giá vẽ, chiếc giường xếp mà Tom đã dùng để kéo xác Sean Wrentmore, một bảng chơi phi tiêu.
Gần trung tâm tấm bảng có ánh kim loại lấp lánh. Miếng bần phía trên đã bị xé khiến phần thép bên dưới lộ ra ngoài. Loogan chạm ngón tay lên phần bằng thép và cảm thấy nó lõm xuống. Nông và tròn, y như dấu của một viên đạn.