Khi nghỉ hè, các trường đại học công bố kết quả tuyển sinh, không bất ngờ gì khi anh tôi trúng tuyển vào khoa Tin tức của Đại học Yên Kinh.
Người tiếc nuối nhất trong chuyện này là cha. Trước đây, cha một lòng hy vọng anh có thể nối nghiệp cha theo học ở Học viện Nông nghiệp. Theo cách giải thích của cha, Trung Quốc là quốc gia nông nghiệp, người đông, nhưng diện tích canh tác lại ít, hơn nữa mưa không thuận gió không hòa, mấy nghìn năm nay cũng không giải quyết được vấn đề lương thực. Tương lai muốn báo quốc, phục vụ nhân dân, muốn để Trung Quốc có được chỗ đứng trên thế giới sau chiến tranh thì nhất định phải đạt được thành công lớn trong nông nghiệp. Nhưng bác Phạm tầng dưới thì cho rằng anh tôi thông minh, tỉ mỉ, còn làm việc rất ổn thỏa, học y mới là tốt nhất. Bác bắt chước khẩu âm kỳ quái của vùng Tứ Xuyên: “Cứu nước, cứu dân, lấy gì để cứu? Lấy dao phẫu thuật! Ở Trung Quốc các anh, Quan Âm Bồ Tát cứu khổ cứu nạn, bác sĩ chính là Quan Âm Bồ Tát đấy.”
Đến Phạm Thư Văn cũng che miệng cười khúc khích trêu cha mình.
Hai vị giáo sư đều hy vọng anh tôi theo học ngành của họ, đủ để thấy anh tôi thành tích vừa tốt mà nhân phẩm lại vô cùng xuất sắc.
Tóm lại là cuối cùng anh tôi không học y, cũng không học nông, anh học tin tức. Anh hy vọng bản thân có thể dùng bút làm súng, cống hiến một phần sức lực cho kháng chiến.
Trước nay, anh Khắc Tuấn vẫn luôn suy nghĩ chín chắn, sau khi trúng tuyển vào khoa Tin tức, việc đầu tiên anh làm là tìm chương trình giảng dạy trong bốn năm đại học, nghiên cứu một lượt từ đầu đến cuối. Anh phát hiện ra một vấn đề rất quan trọng: Trong những môn học về tin tức, chụp ảnh là một trong những thứ quan trọng nhất, một ký giả thời sự nếu không biết chụp ảnh thì chỉ là cưỡi ngựa xem hoa mà thôi, một tay nửa vời, nghiệp vụ không hoàn chỉnh.
Thế nhưng vào thời đó, máy ảnh là một thứ đặc quyền dành cho quý tộc, không nói đến cái khác, một cái máy ảnh Leica cũng là thứ mà gia đình phổ thông không mua được rồi. Thêm cả phim, phòng tối, máy phóng to thu nhỏ, nước rửa ảnh, nước định hình... nhiều vô số kể, là một khoản tiền nhìn mà giật mình.
Anh tôi ấy mà, chuyện gì cũng vậy, hoặc là không làm được, hoặc là phải làm tốt nhất. Hồi nhỏ, anh học môn thể dục, chạy bộ không bằng các bạn trong lớp, anh về nhà nhờ mẹ làm hai bao cát nặng trình trịch, ngày nào tan học cũng cột vào bắp chân rồi chạy! Chạy được một năm, giật được giải nhất cuộc thi chạy dài tám trăm mét của học sinh tiểu học toàn tỉnh. Hiện giờ, nếu đã quyết định học tin tức, sao có thể chỉ cầm bút không cầm máy ảnh được chứ?
Anh đạp chiếc xe của cha một mình vòng quanh Thành Đô hai ngày trời, quan sát tất cả phố xá trong thành phố, tất cả các gánh hàng cũ bày ra trong ngóc ngách xó xỉnh, về nhà cầm bút tính toán, thở phào nhẹ nhõm nói với chúng tôi rằng máy không đắt tiền, dọa người ta chết khiếp. Anh bảo, những nhà bán máy ảnh trước kia rất giàu có, giờ chạy nạn đến Thành Đô, cực khổ những năm qua, miệng ăn núi lở nên buộc phải dựa vào cầm cố để sinh sống, phải bán tháo những món đồ tốt đi với giá rẻ. Để chứng minh chuyện này, anh xòe bàn tay đếm, miêu tả từng thứ từng thứ một cho chúng tôi, những bức tranh chữ cổ, tượng Phật, đồ gốm mà anh nhìn thấy trên gánh hàng rong cũ với giá rẻ đến bất ngờ, rồi thở dài một hơi: “Cuộc sống của nhân dân thật gian nan.”
Nhìn xem, anh tôi chính là người như vậy đấy, vẫn chưa bắt đầu học tin tức mà đã có ý thức làm ký giả điều tra rồi.
Có điều, máy ảnh dù rẻ hơn nữa cũng vượt xa khả năng chi tiêu của gia đình tôi. Trong năm đó, chiến tranh đã vắt kiệt quốc khố và tài sản của nhân dân, gạo trên chợ mỗi tháng một giá, mà tiền lương của các giáo sư chỉ trả được tám phần, nếu như không phải học phí của chúng tôi được miễn giảm và Chính phủ còn có bộ máy cung cấp ổn định giá gạo, thì việc một mình cha gánh trên vai cuộc sống của cả nhà là chuyện có nghĩ cũng chẳng dám nghĩ tới.
Anh tôi buồn bực ngồi trong nhà đằng đẵng nửa ngày trời, lôi tất cả những chuyện có thể giảm thiểu chi tiêu ra nghĩ một lượt, đột nhiên nảy ra một ý: Quyển tiểu thuyết mà chị tôi đang đọc kia, nếu như là quyển truyện được đông đảo mọi người yêu thích, vậy tại sao không dịch ra nhỉ? Nếu như có thể dịch và xuất bản, tiền nhuận bút chẳng phải là một khoản lớn sao?
Nghĩ là làm. Ngày hôm sau, anh kéo theo chị mang quyển tiểu thuyết tiếng Anh kia đi gõ cửa một nhà xuất bản tạp chí trên bãi bồi Hoa Tây. Gặp được chủ biên, anh tôi chịu trách nhiệm giới thiệu, chị tôi chịu trách nhiệm thuyết giảng, một câu chuyện cảm động cứ thế bắt đầu. Từ trước tới nay, mồm miệng chị tôi vẫn nhanh nhạy, giàu tình cảm, nước mắt nói rơi là rơi, thêm cả việc chị vừa mới đọc tường tận quyển sách đấy nên tình tiết nhân vật vẫn đang sống động trong lòng, vừa kể vừa thêm phần biểu diễn, thế mà khiến chủ biên xúc động tới mức nước mắt lưng tròng, lập tức đập bàn nói sẽ nhanh chóng đăng tải quyển tiểu thuyết này trên tập san nhiều kỳ. Chủ biên còn hết sức tự tin bảo rằng, đợi đăng xong tập san nhiều kỳ sẽ nhanh chóng ra bản in lẻ, đóng cả hai loại bìa cứng và bìa mềm. Trừ khu vực cai trị của Chính phủ Quốc dân Đảng ra, phải tranh thủ bán đến Hồng Kông, Đông Nam Á, thậm chí cả những khu vực đã rơi vào tay giặc như Bắc Kinh và Thượng Hải. Phải bán được mười nghìn bản, năm mươi nghìn bản, một trăm nghìn bản, lập nên kỳ tích trong lịch sử xuất bản.
“Câu chuyện hay đến thế! Nhân vật hay đến thế! Nếu đăng tải cuốn tiểu thuyết này trong giai đoạn hiện nay thì quả là sự giúp đỡ kịp thời đối với tuyên truyền chính diện trong thời kỳ hiện nay, là thiên thời địa lợi nhân hòa.”
Về đến nhà, anh tôi vẫn còn lâng lâng, rót cho mỗi người chúng tôi một bát nước lạnh, kêu mọi người lấy nước thay rượu, cầu chúc cho thành công của anh. Chị tôi cũng phấn khởi lắm, vừa bế em trai lên vừa hét to xoay vòng vòng, mẹ tôi giật mình mắng cho câu “Thần kinh”, Thẩm Thiên Lộ thì lặng lẽ bận trước bận sau, dọn cho anh tôi một cái bàn, bày giấy, bút và cả những đồ linh tinh có khả năng dùng đến như kim băng, lọ keo.
Sau đấy, anh đuổi em trai và Tiểu Tố vướng tay vướng chân đi, chỉ giữ lại chị tôi, Thẩm Thiên Lộ và tôi, đóng chặt cửa phòng, bắt đầu phân công việc. Vào giây phút đó, tôi không còn gì hạnh phúc hơn việc mình đã là học sinh trung học, được anh trai “thu nhận dưới trướng”, nếu như có thể giúp được việc thì tôi chuẩn bị sẵn sàng mười ngày mười đêm không ngủ.
Trong bốn người, trình độ tiếng Anh của anh tôi là giỏi nhất, đương nhiên sẽ chịu trách nhiệm dịch. Chị tôi đã đọc qua quyển sách này, hiểu rõ tình tiết và nhân vật, hơn nữa khả năng viết của chị rất tốt, lời văn đẹp, nên làm nhiệm vụ rà soát sửa lỗi, hiệu đính và trau chuốt câu từ. Thẩm Thiên Lộ tỉ mỉ cẩn thận, viết chữ cũng đẹp, là người chép lại. Anh tôi còn đặc biệt nhấn mạnh: “Sao chép cũng rất quan trọng, nếu chữ viết không rõ ràng, biên tập cũng chẳng muốn xem.”
“Em thì sao?” Thấy công việc đã phân xong xuôi, tôi sốt ruột lắm.
Chị liếc tôi: “Bưng trà rót nước.”
Tôi giậm chân, sắp khóc rồi đây.
Anh Khắc Tuấn vỗ đầu tôi: “Công việc của Tranh Tử càng thêm quan trọng, em phụ trách tra từ điển. Ví dụ nhé, anh đọc một từ: perfume, từ này có nghĩa là gì nhỉ? Em sẽ nhanh chóng mở từ điển, tìm đến từ bắt đầu bằng chữ P, nhìn xem, ồ, là nước hoa! Vậy là em đã tiết kiệm được thời gian của anh rồi, tốt biết bao.”
Ừ, tôi cũng cảm thấy rất tuyệt. Ít nhất trong thời gian này, quyển “Từ điển Tiếng Anh” của cha sẽ do tôi quản lý.
Buổi chiều, cha về nhà phát hiện ra cửa phòng chúng tôi đóng chặt, cảm thấy kỳ lạ bèn gõ cửa đi vào, hỏi rõ nguyên do, hỏi xong lại có vài phần vui mừng: “Trải nghiệm thực tế cũng là một cách rèn luyện với các con. Có điều, kiểu tiểu thuyết tình cảm này, thỉnh thoảng xem thì được chứ nhất quyết không được đâm đầu vào nó, không có ích lợi gì với đất nước với nhân dân.”
Chị không phục, thầm thì: “Chuyện gì cha cũng lôi đất nước nhân dân vào.”
Cha rất khó hiểu nhìn chị: “Ngoài đất nước nhân dân, vào lúc này các con còn nghĩ được gì nữa?”
Nhất thời chị không trả lời được, bèn nhăn mặt.
Cha còn quan tâm chúng tôi: “Trời nóng, phải mở cửa sổ cho thoáng khí, bảo mẹ nấu chè đậu xanh mà ăn, đừng để cảm nắng.”
“Ha ha, đây mới là lời cha nên nói này.” Chị hoan hô.
Cha mỉm cười, đi ra ngoài kêu mẹ nấu chè đậu xanh.
Một tuần sau đó chúng tôi dịch được tập bản thảo đầu tiên. Vẫn là anh chị tôi đi đưa bản thảo, Thẩm Thiên Lộ và tôi ở nhà, lòng nóng như lửa đốt chờ đợi kết quả. Chúng tôi trò chuyện trong lúc chờ đợi, Thẩm Thiên Lộ nói, chương đầu tiên mở đầu truyện anh tôi dịch hay lắm, còn dịch hay hơn cả thầy Lâm Cầm Nam, chắc chắn khiến người ta đọc một lần là không dứt nổi.
Tôi hỏi anh ấy, Lâm Cầm Nam là ai? Đã dịch những tiểu thuyết gì rồi?
Thẩm Thiên Lộ xòe bàn tay ra đếm: “Túp lều bác Tom” này, “Trà Hoa Nữ” này, “Robinson Crusoe” này... anh kể một lèo đến gần mười bộ.
Tôi ngờ rằng, anh ấy chỉ nghe lời đồn thôi, bởi vì tôi chưa bao giờ thấy anh đọc những quyển truyện này.
Anh ấy đỏ mặt thừa nhận chưa xem hết toàn bộ, nhưng thầy giáo môn Ngữ văn có giảng đến. Anh nói thầy giáo của các anh hơn bốn mươi tuổi vẫn còn độc thân, không có sở thích gì ngoài đọc sách, tất cả những quyển có thể mua ngoài hiệu sách thầy anh đã đọc sạch sành sanh.
“Giỏi không? Chỉ riêng tiền thầy mua sách cũng đủ dọa em sợ chết khiếp rồi.”
Tôi trả lời, giỏi thì giỏi đấy, thế nhưng thầy giáo thích sách đến vậy tại sao vẫn còn độc thân? Lẽ nào con gái không thích người đọc sách nhiều sao?
Anh vòng vo, quanh co nửa ngày trời mới nói thật với tôi: “Thầy của anh trọc đầu, cái đầu của thầy còn sáng hơn cả bóng đèn.”
Tôi cười lăn lộn trên giường, tưởng tượng ra thầy giáo với cái đầu trọc lốc, bóng loáng giảng bài cho Thẩm Thiên Lộ, còn say sưa giảng, kể về câu chuyện “Trà Hoa Nữ”, càng cười điên cuồng, văng cả nước miếng.
Thẩm Thiên Lộ chau mày: “Xem xem, đến em còn cười thành như thế này, có thể thấy, con gái đều trông mặt mà bắt hình dong cả.”
Tôi vừa cười vừa phản bác anh ấy: “Con trai càng như thế nhé? Nếu không, sao nhiều con trai lớp các anh thích chị em thế?”
Anh ấy lườm tôi một cái sắc lẹm, ngậm chặt miệng.
“Đỏ mặt rồi chứ gì?” Tôi nhất quyết không buông: “Thừa nhận anh thích chị em rồi chứ gì?”
Anh ấy thở dài, buồn thương nhìn tôi. “Tranh Tử.” Anh gọi tên tôi. “Tại sao em vẫn chưa lớn thế?”
Tôi bò dậy ngồi vào bàn, cầm bút của anh tôi lên vẽ hình người đàn ông với cái đầu trọc lốc. Đầu tiên, tôi vẽ một cái vòng tròn làm gương mặt, sau đấy thì là mắt, mũi, tai. Xử lý đầu ra sao thì phải suy xét một chút, nếu như thật sự còn sáng hơn bóng đèn, thì phải làm sao để biểu hiện sự “sáng” này nhỉ?
Thẩm Thiên Lộ len lén đứng cạnh xem tôi vẽ, dường như anh có rất nhiều lời muốn nói. Tôi cố ý cúi đầu làm ngơ. Anh ấy quá là không thú vị, rõ đang nói chị tôi, cớ gì lại vòng một phát sang tôi, trách tôi không lớn.
Anh chị tôi trở về trong tâm thế hân hoan, tôi ở trên tầng cũng nghe thấy tiếng chị Thư Nhã chào vú Hình khoan khoái như con chim khách. Họ xách về một túi kem đậu đỏ, chia cho mỗi người một que, đến mẹ cũng bị họ đuổi theo ép cắn một miếng. Khỏi phải hỏi nữa rồi, nhất định đã ra trận thành công, chiến thắng giòn giã.
Càng kỳ lạ hơn nữa là họ dẫn một người lạ mặt về cùng, người này không cao, tay chân lèo khèo, mắt mũi miệng đều nhỏ, lúc nói chuyện còn khoa tay múa chân, biểu cảm cũng mang theo sự tinh quái. Tôi không nhìn ra anh ta bao nhiêu tuổi, giống như hai mươi, lại giống như ba mươi. Tóm lại, anh ta mang lại cảm giác rất khó miêu tả, rất hấp dẫn, rạng rỡ nhiệt tình như ánh mặt trời, khiến người ta dính vào rồi là không thoát thân được.
Anh Khắc Tuấn giới thiệu người đó với tôi và Thẩm Thiên Lộ: “Anh Lý, biên tập văn học của nhà xuất bản tạp chí Trào Lưu, đồng thời cũng là một nhà thơ.”
Đối phương toét miệng cười, liên tục chắp tay: “Lý Thắng Lợi, Lý Thắng Lợi, vừa mới đổi tên.”
Tôi kìm lòng không đặng mà bật cười: “Thế nhưng chúng ta vẫn chưa thắng lợi.”
Anh ta nghiêm chỉnh: “Chắc chắn sẽ thắng lợi, rồi sẽ có một ngày.”
Chị tôi chen lời: “Anh Lý là biên tập viên của chúng ta. Anh ấy nói cuốn tiểu thuyết này xuất bản rất kịp thời kịp lúc, nhân dân đang rất cần những tác phẩm tuyên truyền khích lệ lòng người như thế này, đúng không anh Lý?”
Lý Thắng Lợi nhướn mày: “Rất đúng lúc! Tuyên truyền chính là vậy đấy: Nó là một loại thái độ, càng vào lúc u ám, chúng ta càng cần giương cao cánh tay đón lấy ánh sáng! Đã đọc bài thơ ‘Bài ca chim báo bão’ của Maxim Gorky chưa? Hãy nghe này: ‘Trên vùng bình nguyên xám xịt của biển cả, gió thổi cuốn theo mây bay. Giữa biển và mây, chú chim báo bão kiêu hãnh vút cao như tia chớp đen...’” Anh ta giơ cánh tay ngắn ngủn lên cao, giả vờ bay lượn, “Chiến tranh là biển lớn, mây đen là lũ quân Nhật độc ác, còn chúng ta là những cánh chim báo bão bay lượn chào đón thắng lợi.”
Diễn thuyết của Lý Thắng Lợi không phải là diễn thuyết mà hoàn toàn là ngẫu hứng biểu diễn, trước kia, nhà chúng tôi chưa bao giờ tiếp xúc với nhân vật nào cảm xúc dạt dào phơi phới, hào hùng vạn trượng như thế này. Tôi thấy Thẩm Thiên Lộ nghe mà mắt trợn tròn, miệng há hốc, quên cả cắn cây kem trên tay, khiến kem chảy nước rơi trên mặt đất. Ngược lại, anh tôi lại không kinh ngạc chút nào, chắc là lúc ở nhà xuất bản tạp chí đã được lĩnh giáo tính cách phóng khoáng của nhà thơ này rồi. Chỉ có chị tôi vội vàng đưa cây kem lên miệng cắn chặt, vỗ tay nhiệt liệt cổ vũ cho đối phương.
“Nói hay thật! Rất hay!” Ánh mắt chị sáng ngời.
Tôi thầm nghĩ, hóa ra nhà thơ là người khi nói chuyện mà cả tay chân mặt mũi đều phải cử động, là người đọc câu thơ giống như đang đọc kịch bản. Các lớp khóa trên trong trường chúng tôi có một thầy giáo dạy Ngữ văn hơn bốn mươi tuổi, lúc ngâm nga thơ cổ cũng lắc lư đầu như thế này, vô cùng say sưa. Có điều thầy giáo là tự mình say sưa, còn Lý Thắng Lợi này lại không giống, anh ta có ma lực thu hút linh hồn người khác.
Tôi hơi lo lắng cho chị, tôi sợ chị sẽ bị hút mất.
Lý Thắng Lợi yêu cầu anh Khắc Tuấn cho anh ta xem nguyên tác bộ truyện “Cao hơn hết thảy”. Anh ta nhiệt tình nói, quyển sách này cảm động quá, còn gì có thể cao thượng hơn tình yêu sinh tử trên chiến trường không? Quả thật là một tác phẩm cảm động thấu trời xanh! Anh ta cần phải thay mặt cho toàn bộ thanh niên tràn đầy nhiệt huyết trên đất nước Trung Quốc cảm ơn chúng tôi, vì đã làm một việc đúng đắn đến không còn gì đúng đắn hơn. Đối với Trung Quốc hiện nay, quyển sách này giống như một lời kêu gọi động viên nhập ngũ... không không, là lời kêu gọi chiến đấu... cũng không phải, nó còn có hiệu quả hơn tất cả những lời kêu gọi của Chính phủ, bởi vì đây là sức mạnh của văn học, là lời kêu gọi của lòng tin.
Anh ta nói một hơi thật dài, đến tận khi tôi liếm hết cây kem. Anh ta thao thao bất tuyệt như cơn lũ xối, hơn nữa chẳng biết vì sao còn có một cảm giác vàng thau lẫn lộn cuốn trôi hết thảy.
Nói xong, anh ta mới nêu lên ý kiến của mình: “Khách quan mà nói, cái tên ‘Cao hơn hết thảy’ hơi khái niệm hóa, không đủ romantic, đổi cái tên khác thì sao? ‘Tình yêu sinh tử’? Hay là ‘Vĩnh viễn đánh mất tình yêu của tôi’?”
Anh Khắc Tuấn khó xử: “Thế nhưng tên sách trong tiếng Anh là như vậy, chẳng phải phiên dịch cần đúng với nguyên tác sao?”
Anh ta khoát tay: “Có thể linh hoạt.”
Chị tôi lập tức tán thành nhiệt liệt: “Tôi cũng cảm thấy như vậy.”
Tính nguyên tắc của anh tôi rất cao: “Vẫn cần phải suy xét toàn cục, hay là tôi thỉnh giáo giảng viên tiếng Anh của trường Đại học Yên Kinh?”
Lý Thắng Lợi vội vã xua tay: “Đây chỉ là kiến nghị, không nhất thiết phải làm theo.”
Anh ta cầm quyển sách nguyên tác tiếng Anh trong tay, lật soàn soạt đến trang cuối cùng, rồi lại lật soàn soạt trở về trang đầu tiên. Tôi để ý, anh ta không hề đọc kỹ càng một chữ nội dung nào. Tôi nghi ngờ anh ta giống với tôi, căn bản không hiểu những từ ngữ tiếng Anh kia. Nhưng tiếp theo đó, tôi lại tự trách bản thân, không nên lấy lòng tiểu nhân đo dạ quân tử.
Chị tôi kiên trì giữ anh ta ở lại ăn cơm. Mẹ thì lúng ta lúng túng xào một đĩa thịt heo, còn chưng cả một bát trứng đầy ắp để chiêu đãi khách quý. Có điều, dường như Lý Thắng Lợi chẳng để ý gì đến thức ăn, ngồi trên bàn ăn mà anh ta cứ thao thao bất tuyệt nói chuyện với cha tôi, từ phân tích các kiểu hình thái chiến tranh, thảo luận Chính phủ Uông Tinh Vệ ở Nam Kinh cho đến thất bại của quân Đức ở Volgograd, quân Nhật một mình cầm cự Miến Điện, giải tán Quốc tế Cộng Sản. Anh ta còn nhắc đến Diên An, nhắc đến quyển sách “Luận về trường kỳ kháng chiến” của Mao Trạch Đông. Anh ta đồng ý hôm sau sẽ đưa quyển sách đấy tới cho cha tôi đọc.
“Đây là một quyển sách rất sâu sắc về kháng chiến. Sẽ không còn quyển nào sâu sắc hơn nó nữa đâu.” Lý Thắng Lợi quả quyết.
Sau khi anh ta đi, cha tôi chắp tay đi lòng vòng trong nhà, cứ đi cứ đi rồi đột nhiên dừng lại nói: “Người này rất thú vị, dường như trên trời dưới đất không có gì anh ta không biết.” Rồi cha nói tiếp: “Tòa soạn báo này có bối cảnh gì thế? Có phải có quan hệ với bên Diên An không?”
Không ai trả lời câu hỏi của cha. Có lẽ anh chị tôi cũng bị màn tán gẫu của Lý Thắng Lợi làm cho mơ màng, cần phải có thời gian để tiêu hóa.
Thế nhưng tiểu thuyết đăng tải dài kỳ vô cùng thành công, kỳ đầu tiên đăng trên Trào Lưu, tạp chí vừa ra đã lập tức cháy hàng trong vòng ba ngày. Tái bản lại lần nữa mà vẫn cung không đủ cầu. Kỳ thứ hai đăng tải, chủ biên cắn răng in mười nghìn bản trong lần đầu tiên, lũ trẻ bán báo cõng tạp chí lên phố chưa kịp rao lên đã bị những độc giả si mê túm tụm vây lại. Chủ biên vui đến nỗi ngay buổi tối hôm ấy mời toàn bộ biên tập đi ăn vịt hun khói kiểu Tứ Xuyên, phổi phu thê, còn đặc biệt gọi cả anh chị tôi.
Mẹ tôi ở nhà cảm thán: “Năm đó ‘Thân Báo’ đăng tải tiểu thuyết của Trương Hận Thủy cũng giống y như thế này!”
Tiểu thuyết thành công, thật ra là thành công của phiên dịch. Phiên dịch thành công rồi, báo trước máy ảnh của anh tôi có chỗ trông cậy rồi.
Tôi vẫn còn nhớ trước khi kỳ nghỉ hè kết thúc, anh tôi mua một chiếc máy ảnh Leica cũ cùng chiếc bao da đã sờn,vác trên vai mang về nhà, trong viện ngoài viện người người đi đi lại lại vui vẻ lắm. Anh chụp ảnh mẹ, chụp Tiểu Tố và em trai, chụp đôi gà trống mái lông lụa đầu phượng của giáo sư Mai, còn chụp cả hoa phụng tiên trước cổng viện, hoa chuối huệ và cây lựu đã kết quả to bằng nắm tay. Theo như yêu cầu của chị, anh đã chụp riêng cho chị vài tấm chân dung, rồi thề thốt: “Chắc chắn sẽ đẹp hơn ảnh chụp của minh tinh.”
Anh và Thẩm Thiên Lộ treo chiếc thảm lông quân đội trên cửa sổ phòng mình, bọc một tờ giấy đỏ trên bóng đèn, cải tạo thành phòng tối tạm thời, rồi đuổi hết thảy bọn tôi ra bên ngoài chỉ để lại Thẩm Thiên Lộ làm phụ tá cho anh. Bận rộn suốt cả đêm, chai lọ trải đầy đất, dùng không ít nước tráng và định hình ảnh, cuối cùng cũng rửa được ảnh, tiêu cự không đúng, ảnh cứ mơ mơ hồ hồ.
Người khác cảm thấy không vấn đề gì, nhưng chị tôi mỏi mắt chờ mong ảnh đã bị chọc tức, mắng anh: “Ba hoa khoác lác!”
Anh chột dạ, chỉ có thể giải thích, trên thế giới này không có chuyện làm một lần là thành công.
“Vậy được, lần này không tính, anh chụp tiếp đi!” Chị vội chạy đi lấy giấy đỏ thấm môi.
Nhưng anh Khắc Tuấn không dám chụp tiếp nữa, bởi vì anh chỉ có tổng cộng bốn cuộn phim. Mặc dù nó không đắt lắm, nhưng cũng chẳng rẻ, anh rất hối hận khi lần đầu tiên cầm nó trên tay đã tiêu tốn mất một nửa vốn liếng.
Rốt cuộc, anh tôi vẫn không nỡ dùng cuộn phim còn lại, đến tận lúc lớp nhiếp ảnh của khoa Tin tức các anh chính thức giảng dạy, nghe thầy giáo giảng về những nguyên lý chụp ảnh cơ bản, anh mới lấy cuộn phim kia chạy đến tiệm chụp ảnh, bỏ ra ít tiền nhờ thợ chụp ảnh cắt cuộn phim của anh trong hộp tối thành ba, bốn cuốn nhỏ. Anh tôi cảm thấy như vậy có thể tiết kiệm, nhỡ mà chụp hỏng hoặc là rửa hỏng cũng không đến nỗi đau lòng quá.
Đến cuối cùng, “bức ảnh minh tinh” của chị vẫn hoàn thiện trong tay anh. Bức ảnh đó được cất giữ trong quyển album của nhà tôi rất lâu, trước khi mẹ chúng tôi qua đời, cứ cách một khoảng thời gian, bà lại lấy nó ra, lặng yên ngắm nhìn nó vài phút, có những lúc bà còn lẩm bẩm nói vài câu gì đó.
Tôi mãi mãi nhớ dáng vẻ của chị trong bức ảnh ấy: Hai bím tóc đuôi sam óng ả, tóc mái dùng kìm cặp than khẽ uốn, ngọn tóc đều chằn chặn cong cong trên đôi hàng mi, tôn lên gương mặt trắng như trứng gà bóc. Tuy rằng chỉ là một bức ảnh đen trắng nhưng bạn cũng có thể thấy được độ sáng bóng của làn da, trắng trẻo mịn màng chẳng tì vết. Thú vị ở chỗ, trong ảnh chị ngước lên một góc bốn mươi lăm độ, đôi mắt nhìn về góc trên bên phải, tựa như đang nhìn nơi nào đó rất xa, không phải kiểu mỏi mắt chờ mong, mà là mở to sửng sốt, có khát khao, có thét gào. Nhìn kỹ ánh sáng trong mắt chị, giống như mặt hồ chứa đựng những vì sao lấp lánh.
Năm ấy, chị tôi vừa tròn mười bảy tuổi, kiêu ngạo như một nàng công chúa, vui tươi giống như một chú chim hỷ thước. Chị chưa bao giờ nghĩ rằng sinh mệnh lại là thứ mỏng manh yếu ớt đến vậy, có lúc chỉ “lộp bộp” một tiếng, vì sao rơi xuống đất, từ đó cát trở về với cát, bụi quy về với bụi.