Tiệm sách Thiên Địa nằm trên đường Thanh Khê, ông chủ là một Hoa Kiều, nghe nói là chủ một trang viên rất giàu có, có những cánh đồng cao su lớn ở Malaysia, sau năm mươi tuổi đưa cho con trai quản lý tài sản trong nhà, còn mình cáo lão về quê, bởi vì tổ tiên từng là cử nhân, bản thân lại thích kết giao với người đọc sách nên ông đã bỏ vốn mở một tiệm sách. Ông chủ này là một người rất thú vị, dù sao thì gia tài của ông ấy là cả vạn bạc, mở tiệm sách cũng chẳng vì kiếm tiền, chỉ là giải khuây và kết giao bạn bè mà thôi. Rất nhiều sinh viên trên bãi bồi Hoa Tây xem tiệm sách nhà ông ấy là thư viện, rảnh rỗi không có việc gì làm đều đến đây đọc sách, uống trà, tán chuyện trên trời dưới đất, hễ ngồi là ngồi cả nửa ngày trời. Bất cứ lúc nào tiệm sách cũng náo nhiệt vô cùng.
Lần đầu tiên tôi cùng chị đi đến tiệm sách Thiên Địa cũng là vào mùa hè năm đó. Anh chúng tôi nhận được tiền nhuận bút dịch sách, dựa trên sự cống hiến của mỗi người mà rất hào phóng chia cho chúng tôi một phần. Thẩm Thiên Lộ sống chết không chịu nhận, anh ấy nói mình chỉ chép sách vài ngày mà thôi, xem như là luyện chữ, thêm cả việc anh ấy ăn mặc đều ở nhà tôi, cầm tiền cũng chẳng để làm gì. Anh tôi nói được, vậy thì anh sẽ giúp Thẩm Thiên Lộ giữ số tiền này.
Tôi và chị đều nhận lấy. Nếu đã là tiền của anh cho, Thẩm Thiên Lộ ngại chứ chúng tôi thì không đâu. Tôi muốn dùng số tiền này mua sách. Năm ấy, tôi bắt đầu mê mẩn đọc tiểu thuyết, Lâm Ngữ Đường này, Ba Kim này, Mao Thuẫn này, thậm chí cả kịch bản của Tào Ngu, “Lôi Vũ”, “Mặt trời mọc”, tôi đều thích hết. Những quyển tiểu thuyết đó khiến tôi hiểu được xã hội Trung Quốc là như thế nào, những mâu thuẫn trong gia đình phong kiến, sự đối lập giữa công nhân và nhà tư bản, sự phản kháng của những người bị áp bức bóc lột... mà sách viết dường như đang mở từng cánh cửa sổ ra trước mắt tôi, tôi mơ hồ ý thức được, kỳ thực quốc gia và xã hội mà tôi sinh sống đang hỗn loạn bất an, có một thứ gì đó mang cảm giác hoàn toàn mới đang tiến về phía chúng tôi, giống như một người khổng lồ với những bước chân to lớn, lại cũng giống như những đám mây bay phía cuối chân trời, những con sóng cuồn cuộn nơi biển lớn, tóm lại, nó khiến cho thế giới của chúng tôi trời long đất lở.
Không lâu trước đây, tôi đã từng đọc một quyển sách của thầy Lỗ Tấn, đó là quyển sách mà Lý Thắng Lợi đề cử cho anh chị tôi, nó có tựa là “Cỏ hoang”. Tôi đã đọc hết nhưng không hiểu lắm. Anh tôi bảo, không hiểu là đúng rồi, sách của thầy Lỗ Tấn có phải viết cho trẻ con xem đâu. Tôi nghe xong thì thở phào nhẹ nhõm, may là không phải do trình độ Ngữ văn của tôi kém.
Cũng từ miệng Lý Thắng Lợi mà chị tôi biết được tiệm sách không cần bỏ tiền cũng được đọc kia, còn vô cùng nghĩa khí gọi tôi: “Đi, chị dẫn em đi dò đường.”
Có sách đọc, lại còn không phải trả tiền, hiển nhiên là chuyện cực kỳ cực kỳ tốt với lũ học sinh chúng tôi.
Xuất phát từ Lựu Viên, hỏi han suốt dọc đường, vòng tới vòng lui vài lần mới nhìn thấy tấm biển hiệu gỗ khắc chữ trên phố Thanh Khê: Tiệm sách Thiên Địa. Mặt tiền của cửa tiệm rất nhỏ, nếu đi đường không chú ý còn lầm tưởng là nhà dân, đẩy cánh cửa với nước sơn đen bóng ra, chúng tôi mới phát hiện ra động tiên bên trong: Giữa ban ngày mà tiệm sách vẫn đèn đuốc sáng trưng, từng hàng từng hàng giá sách cao ngất, có người đứng, có người ngồi, có người nửa dựa nửa ngồi, có những người ngồi đối diện nhau, cũng có những người kề tai chụm đầu, toàn bộ đều là những thanh niên mười mấy hai mươi tuổi. Có người không có tiền mua sách, nhưng đọc một lượt lại cảm thấy không đã ghiền, bèn dứt khoát tìm một bệ cửa sổ, cong mông ghé vào đó chép lại. Cũng có người không phải đến đọc sách, cũng không phải đến mua sách, cứ vòng đi vòng lại quanh giá sách nhìn Đông ngó Tây, cũng có nhân viên của tiệm đến đuổi đi. Buồn cười nhất là hai cô bé chừng bảy, tám tuổi, không biết tránh nắng hay đến góp vui mà ngồi xếp bằng trong xó phòng, hết sức chăm chú chơi dây.
Chị tôi nhỏ giọng cảm thán: “Ây da, chẳng trách được yêu thích đến thế, tự do thế kia mà!”
Chị kéo tay tôi đi quanh cửa tiệm, muốn tìm chỗ ngồi xuống, kết quả phát hiện bên trái quầy thu ngân có một phòng trà nhỏ, đi xuyên qua phòng trà là một cánh cửa nửa đóng nửa mở. Bên trong có giọng nói giống như diễn thuyết. Nhất thời chị đứng khựng lại, vừa kinh ngạc vừa vui mừng nói: “Trời ạ, là anh Lý!”
Có nghĩ cũng không nghĩ ra được, chúng tôi vội vàng bước qua. Lúc đi vào mới phát hiện có rất nhiều người đã ngồi kín vài dãy ghế dài, phòng không có cửa sổ, không khí không lưu thông, ai nấy đều đang toát mồ hôi, mặt bóng nhẫy, trước ngực sau lưng đều có vệt mồ hôi ướt áo. Còn có hai người có vẻ hơi lớn tuổi, không giống học sinh, lơ đãng cầm điếu thuốc, khói thuốc trắng lờn vờn quanh đỉnh đầu của mọi người làm cho không khí càng thêm vẩn đục, hít mạnh vào khiến tôi bị sặc, nên chỉ đành nín thở.
Lý Thắng Lợi mặc chiếc áo cộc tay màu xám cổ tròn và chiếc quần màu đen rộng thùng thình, đứng ở trên một chiếc ghế bành bên đầu phía Bắc, lưng đẫm mồ hôi giới thiệu quyển sách trong tay anh ta cho mọi người. Bởi vì anh ta đứng rất cao, bìa sách đang lật mở, liếc mắt nhìn một cái là thấy được trên bìa vẽ lá cờ đỏ tươi, còn có một người thanh niên đội chiếc mũ da lộn đang cưỡi ngựa. Có lẽ vì đang là giữa hè, chiếc mũ đó khiến tôi cảm thấy vô cùng cổ quái, dường như da đầu tôi đang khó chịu, dựng hết cả tóc gáy lên.
Lý Thắng Lợi đọc diễn cảm một đoạn trong sách, giọng điệu sinh động như thật: “Cuộc sống tặng cho chúng ta một món quà vô cùng to lớn và cao quý, đó là thanh xuân với sức mạnh vô biên, tràn trề chí hướng và nguyện vọng, đầy ắp tìm tòi học hỏi và đấu tranh, thanh xuân với niềm tin và hy vọng...”
Đây là lần đầu tiên tôi nghe từ miệng anh ta thốt lên từ “thanh xuân” này, cảm giác thật lạ lùng. Lúc đầu, tôi còn nghe không hiểu hai chữ này cơ, sau đấy thì mau chóng hiểu ra hóa ra “thanh xuân” là tuổi trẻ, có lẽ là những học sinh đang còn đi học như chúng tôi nhỉ? “Hy vọng” và “niềm tin” thì tôi hiểu. Thế còn “đấu tranh” là gì nhỉ? Đánh nhau với giặc Nhật ư? Hình như là thế, lại cũng hình như không phải thế. Dù sao tôi cảm thấy vô cùng mới mẻ khi nghe anh ta đọc những câu chữ này từ trong sách, nó không giống với những từ ngữ dùng trong tiểu thuyết của Anh và Mỹ, cũng không giống với từ ngữ trong tiểu thuyết của Ba Kim, Lâm Ngữ Đường. Tôi như hiểu mà cũng như không, vô cùng mong mỏi có thể thông suốt, trong lòng như có một con nai con đang giậm thình thịch, thình thịch.
Đọc hết đoạn này, Lý Thắng Lợi ngẩng đầu lên từ trang sách, thở dài một hơi. Bấy giờ anh ta đột nhiên nhìn thấy hai chị em tôi đang chen ở cửa. Anh ta kêu “á”lên rồi nhảy phắt xuống khỏi ghế, vượt qua đám người đi tới, nhiệt tình hô to giữa biết bao đôi mắt: “Hai cô gái họ Hoàng, thật vui vì được gặp các em ở đây! Nào nào, bạn học này, hãy tránh ra nào, nhường cho tôi cái ghế nào!”
Hai chàng trai đeo kính rất lịch thiệp đứng lên nhường lại cái ghế dài, Lý Thắng Lợi một tay kéo qua, luôn miệng thúc giục chúng tôi ngồi xuống, đoạn giải thích, đây là hội bán sách mà tiệm sách vừa mới tổ chức, mời người đến đề cử sách mới hằng tuần, tuần này họ mời anh ta, anh ta muốn đề cử cuốn tiểu thuyết “Thép đã tôi thế đấy” bằng tiếng Liên Xô. Anh ta khoát tay, cười lớn: “Không, không, không, quyển sách này không dạy cách rèn sắt thành thép, nó nói về một chiến sĩ hồng quân tên là Pavel Korchagin đã sống một cuộc đời dũng cảm và tráng lệ biết bao. Ôi chao, thật là một quyển sách tuyệt vời, một con người tuyệt vời! Xin hãy đợi, tôi sẽ đọc thêm một đoạn cho các bạn nghe.”
Anh ta vội vội vàng vàng vòng trở lại, nhảy vèo một phát lên ghế, lập tức tập trung lật mở trang giấy đã được gấp sẵn trong sách. “Các bạn học hãy nghe rõ đoạn tinh tế nhất trong quyển sách này.” Anh ta cố ý ngừng lại, ánh mắt lướt qua chị tôi và tất cả những người ngồi trong phòng. Đợi đến khi mọi người đều chăm chú nhìn, anh ta mới trang trọng đọc lên: “Cái quý nhất của con người ta là sự sống. Đời người chỉ sống có một lần. Phải sống sao cho khỏi xót xa, ân hận vì những năm tháng đã sống hoài, sống phí, cho khỏi hổ thẹn vì dĩ vãng ti tiện và hèn đớn của mình, để khi nhắm mắt xuôi tay có thể nói rằng, tất cả đời ta, tất cả sức ta, ta đã hiến dâng cho sự nghiệp cao đẹp nhất trên đời, sự nghiệp đấu tranh giải phóng loài người...”
Anh ta gập sách lại, giơ hai tay lên cao, cất giọng nói sắc bén mà mạnh mẽ: “Sự nghiệp giải phóng loài người là gì? Đó là người người có cơm ăn, có áo mặc, sinh mạng bình đẳng, thống nhất thế giới. Ngày hôm nay, chúng ta cùng nhau nắm tay kháng chiến đuổi lũ quân Nhật ra khỏi bờ cõi nước ta, xây dựng nên chủ nghĩa xã hội mà chúng ta hằng mơ ước! Các bạn à, ngày hôm nay, thế kỷ hai mươi, thời đại cũ đã trôi qua, ánh rạng đông đang ở ngay trước mắt, Xô viết vĩ đại chính là tấm gương của chúng ta, Pavel Korchagin chính là tấm gương của chúng ta. Ở trong thời đại tráng lệ và vĩ đại này, chúng ta phải nỗ lực! Phải phấn đấu!”
Nói đến đây, anh ta đã mồ hôi mồ kê nhễ nhại, nhếch nhác giống như vừa được vớt từ thùng nước lên, một nhúm tóc ướt rượt dính bết trên trán, giống như miếng cao đen sì vô duyên vô cớ dính lên. Cách khoảng nửa gian phòng, tôi vẫn có thể cảm nhận được năng lượng, sức nóng và cả sự cuồng nhiệt mà anh ta lan tỏa ra.
Lúc đi ra khỏi tiệm sách, chị tôi kích động không thôi, kìm lòng không đặng mà hỏi tôi: “Em nói xem, rốt cuộc anh Lý là người như thế nào nhỉ?”
Tôi ngẫm nghĩ hồi lâu mới trả lời, “Ồ, giống như một đốm lửa.”
“Quá chính xác!” Chị tôi vỗ bộp hai tay vào nhau: “Anh ta là hóa thân của thơ, nhà thơ có lẽ là như thế nhỉ?”
Tôi không trả lời, suy nghĩ cả chặng đường, nhà thơ chẳng phải giống như con tằm sao, ngậm một đống tơ trong bụng, hễ há miệng là nhả lấy nhả để, không bao giờ nhả hết.
Mấy ngày liền, chị tôi đều ở trong trạng thái hưng phấn, gần như gặp ai cũng phải nhắc đến Lý Thắng Lợi, nhắc với anh Khắc Tuấn, nhắc với Thẩm Thiên Lộ, nhắc cả với cha nữa.
“Mọi người nên đi nghe xem, thật đấy, cực kỳ thú vị, không tầm thường chút nào. Còn cả quyển sách kia nữa, hay cực kỳ, con muốn mua nó về.”
Chị thật sự đã đi mua quyển sách “Thép đã tôi thế đấy”. Cả nhà chúng tôi chuyền tay nhau đọc một lượt. Anh bảo sách khá hay, rất cảm động. Thẩm Thiên Lộ hỏi chị tôi, Xô viết thật sự có Pavel Korchagin sao? Cha mới chỉ đọc đoạn mở đầu thì được chính quyền Trùng Khánh mời đến thương thảo một hạng mục hợp tác nông nghiệp quốc tế, đến khi ông trở về đã bắt đầu bước vào vụ thu, nên không có thời gian ngồi xuống đọc hết quyển tiểu thuyết này.
Tôi lén lút đưa quyển sách cho Phạm Thư Văn mượn. Thế nhưng Phạm Thư Văn đọc xong thì bảo rằng, cậu ấy hoàn toàn không hiểu, nếu như Pavel Korchagin đã yêu Tonya đến vậy, Tonya lại là một cô gái xinh đẹp và thiện lương nhường ấy, tại sao họ không ở bên nhau? Lẽ nào tình yêu không quan trọng bằng “cách mạng” ư?
Tôi không trả lời được câu hỏi này, cả tình yêu và cách mạng đều quá xa vời với tôi, nó đã hoàn toàn vượt ra khỏi phạm vi suy nghĩ của tôi. Còn nữa, những cái tên người nước ngoài trong quyển sách đó vừa dài, vừa khó đọc, tôi đọc đến cuối cùng cũng không nhớ nổi quan hệ giữa mấy nhân vật.
Anh tôi và Thẩm Thiên Lộ đều được chị khuyến khích đi xem hội bán sách của tiệm sách Thiên Địa. Lần đó vẫn là Lý Thắng Lợi thuyết giảng về cuốn sách nổi tiếng “Khúc ca gửi ngọn gió tây” của Shelley. “Ơi ngọn gió Tây hoang dã mùa thu, gió cuốn tung mịt mù bao chiếc lá, như những con ma đang bỏ bùa mê...24”
24. Bản dịch của Phan Cẩm Thịnh.
Anh tôi đứng bên dưới khẽ thở phào một hơi: “May mà không bập cái đọc luôn ‘Nếu đông về, xuân có ở sau chăng25’, câu thơ này mọi người đã thuộc nằm lòng rồi.”
25. Bản dịch của Đào Xuân Quý.
Chị tôi huých anh: “Nghe nghiêm túc, đừng soi mói!”
Nghe có một lần là anh tôi và Thẩm Thiên Lộ không chịu đi nữa. Anh bảo, anh thích ngồi bàn luận nhẹ nhàng ôn hòa, dùng lý trí để phân tích chiến cuộc và tình tình, không khí ở hội bán sách Thiên Địa không phù hợp với anh. Còn Thẩm Thiên Lộ là vì không muốn lãng phí thời gian, sau kỳ nghỉ hè này, anh ấy sẽ học lớp mười hai, phải tập trung hết sức chuẩn bị cho kỳ thi đại học. Hiện giờ, anh ấy muốn thi khoa Công nghiệp Hóa chất của Đại học Kim Lăng, tương lai bước trên con đường công thương nghiệp cứu quốc. Anh nói, con đường công thương nghiệp cứu quốc vẫn luôn là nguyện vọng của cha tôi.
“Cha em là cha em, anh là anh, anh có thể tự do lựa chọn con đường của cuộc đời mình.” Chị tôi thành tâm thành ý nói với anh.
“Không, anh nghe lời chú thì hơn, chú không sai đâu.”
“Thẩm Thiên Lộ, nhà em không phải gia đình phong kiến!”
“Anh biết, là anh tự nguyện.”
Chị tôi thương xót nhìn anh, dường như người này đã hết đường cứu chữa.
Sau cùng không còn ai nữa, chị tôi chỉ còn cách túm chặt lấy tôi, cứ vài ba ngày lại kéo tôi đến tiệm sách. Nửa còn lại của cả kỳ nghỉ hè, tôi trở thành người hầu, sai vặt, thư đồng của chị ấy, tóm lại là những thứ na ná như vậy. Có điều, tôi cũng hưởng sái được hư vinh: mỗi lần bước chân vào căn phòng nhỏ kia của tiệm sách Thiên Địa, người ta lại tràn đầy ngưỡng mộ và niềm nở nhìn chị tôi, tôi cũng hưởng ké được chút ít. Ánh mắt này khiến tôi sinh ra ảo giác: con gái đi đến đâu cũng được hoan nghênh, được săn sóc.
Ngày cuối cùng của kỳ nghỉ hè.
Trời nóng như những trận nắng gắt cuối thu. Mặc dù mặt trời trốn trong những tầng mây thật dày, nhưng không khí vẫn nóng bức, ngột ngạt, người dính nhơm nhớp, những con đường lát đá xanh và hai bên tường lát gạch mà chúng tôi đi qua đều “đổ mồ hôi”. Ve sầu kêu ra rả đau thương trên vòm cây. Ở nơi cuối chân trời xa tít tắp đì đùng vọng đến những tiếng sấm giống như tiếng đại bác đang rền vang, khiến lòng tôi bất an.
“E là sắp có mưa rồi.” Tôi nói.
“Sợ gì chứ? Hãy để cơn bão tố tấn công mạnh mẽ hơn! Thơ của Maxim Gorky đấy.”
Chị ngửa đầu, dang rộng đôi tay, nhón chân lượn vòng vòng, tựa như đang bay.
Tôi muốn làm theo động tác của chị, cũng nâng tay lên, thế nhưng tay chân chẳng thể nào khớp nhịp với nhau được, vừa vụng về vừa lóng ngóng.
Hôm ấy, chúng tôi không gặp được Lý Thắng Lợi, hỏi nhân viên trong tiệm thì họ nói hôm nay tòa soạn báo của anh Lý phát bản thảo, anh ta không đi được. Một sinh viên năm tư khoa Xã hội học của Đại học Tề Lỗ lên thuyết giảng về “Nghiên cứu tôn giáo dân tộc Tạng”. Nội dung tọa đàm thâm sâu quá, tôi nghe chẳng hiểu gì. Chị tôi cũng đứng ngồi không yên, chẳng biết có phải do thiếu Lý Thắng Lợi không nữa.
Nghe được một nửa, trời quả nhiên đổ mưa như dự liệu, sấm nổ đì đùng, mưa ào ào xối xả trút xuống, mưa to như trút nước, từ cửa sổ nhìn ra nóc nhà giống như có thiên binh vạn mã quét ngang, từng sóng nước hắt lên lại bị tạt xuống, đất trời chìm trong nước trắng mịt mờ.
Mưa to quá làm khách khứa trong tiệm không đi nổi, tất cả tụ tập trong căn phòng nhỏ bán sách, trong ngoài chật ních những thính giả khiến cho lòng nhiệt tình của người thuyết giảng tăng cao, giảng tận hơn nửa tiếng.
Đến tận khi tan cuộc, mưa mới ngớt đi một chút nhưng không phải tạnh hoàn toàn, dòng nước đục ngầu cuồn cuộn chảy trên con phố, cuốn trôi vô số những cành khô và lá rụng, những thác nước nhỏ xíu trút xuống từ những hàng gạch ngói trên nóc nhà giống như dòng nước tiểu. Nhiều người đợi không nổi mưa tạnh đã xắn quần, rụt cổ chạy huỳnh huỵch vào trong dòng nước. Chị tôi nghĩ đến ngày mai đi học, còn cả những việc cần chuẩn bị mà chưa làm, quyết định bắt chước những người kia, dầm mưa ướt như chuột lột cũng được.
Chúng tôi mặc váy, chỉ cần vén vạt váy lên nhét vào cạp là xong, đi đường càng thêm tiện lợi, chân đi đôi giày xăng đan bện bằng vải bố, sợ nước mưa ngâm hỏng, thế là dứt khoát cởi ra kẹp vào nách. Chuẩn bị xong xuôi, chúng tôi toan bước chân ra cửa thì Trình Du Sinh giương một cái ô vải dầu đi đến, khuỷu tay còn kẹp thêm chiếc ô giấy trẩu hình hoa, bất ngờ xuất hiện trước mặt chúng tôi.
“Thư Nhã, biết em ở tiệm sách, thấy trời sắp đổ mưa, nên anh đưa ô đến cho em.”
Chị tôi kinh ngạc: “Chẳng phải anh theo cha đến Vân Nam rồi sao? Về rồi ư? Sao biết được em ở tiệm sách?”
Trình Du Sinh thật thà trả lời: “Nghe bạn học nói đấy. Họ đều từng gặp em ở tiệm sách.”
Chị tôi không nói gì, nom chị có vẻ không thích gặp Trình Du Sinh ở nơi này.
Tôi thầm nghĩ họ sẽ chẳng đi ngay trong chốc lát được đâu, bèn vòng trở lại, đứng lật sách bên trong. Chưa đầy hai phút, họ bắt đầu tranh cãi ở bên ngoài, giọng của chị tôi rất quả quyết, còn mang theo cả sự tức giận, Trình Du Sinh thì vẫn nhẹ nhàng giống như đang giải thích. Nước mưa rơi trên chiếc ô vải dầu của Trình Du Sinh, kêu lộp đà lộp độp, tôi dựng thẳng tai cũng không nghe thấy họ nói gì. Sau cùng, chị tôi ló đầu vào, giận đùng đùng gọi tôi: “Tranh Tử, còn không đi à?”
Tôi vội vàng ra cửa, hai tay ôm lấy đầu chạy vào trong làn mưa. Chị tôi sải bước ngay đằng sau. Trình Du Sinh vội vàng gọi với theo, bảo chúng tôi cầm một chiếc ô đi, nhưng chị tôi không thèm để ý.
Đi đến nửa đường thì mưa ngừng hẳn, chúng tôi nhìn nhau: Quần áo ướt sũng, bọt nước bắn đầy trên mặt, tóc tai rối bù xù như ma nữ. Chị tôi nhìn mãi, nhìn mãi, chẳng biết làm sao mà đột nhiên phá lên cười. Tôi nhịn không nổi, cũng cười theo chị. Chúng tôi nhìn nhau, trông thảm hại vô cùng, nhưng lại vui vẻ giống như hai đứa ngốc.
Tôi hỏi chị: “Chị, có phải chị chia tay với Trình Du Sinh rồi không?”
Nụ cười của chị tắt ngấm, nét mặt đầy căm giận: “Tên này dám cho bạn học giám sát chị!”
“Nhưng cũng có khả năng người ta vô tình chạm mặt mà.”
“Vô tình chỗ nào? Chị còn không hiểu anh ta chắc? Anh ta chính là kẻ lòng dạ hẹp hòi, nhạt nhẽo.”
Tôi nhớ đến chiếc giường khắc hoa mạ vàng của nhà Trình Du Sinh, nhớ đến con ngựa ngây thơ vô ngần, còn nhớ cả đồng cỏ đẹp như thiên đường. Nếu chị tôi chia tay Trình Du Sinh, chúng tôi sẽ không được đi đến nơi thú vị kia nữa, trong lòng bất giác cảm thấy buồn thương và tiếc nuối.
Chị tôi cúi người, đặt tay lên vai tôi, nói rõ từng câu từng chữ: “Tranh Tử, nói cho em nghe một bí mật, em không được nói với ai.”
“Vâng.”
“Anh Lý ấy, đến từ Diên An.”
Tôi há hốc miệng, vẻ mặt không hiểu gì.
“Anh ấy không nói, nhưng chị đoán ra được. Chỉ có người đến từ Diên An mới có được tinh thần như anh ấy, mới nói được những từ như ‘giải phóng loài người’, em có hiểu không?”
“Là người giống như Pavel Korchagin sao?”
“Là người giống như Pavel Korchagin, là những người dũng cảm nhất, đáng yêu nhất, dám hy sinh nhất.”
Ánh mắt chị sáng ngời, trên gương mặt là sự nhiệt huyết và kiên định tôi chưa từng bắt gặp.
Mây đen ở đường chân trời khi đó đã tản đi, những đám mây ngũ sắc xuất hiện, xen lẫn trong màu hồng nhạt là ánh xanh, ánh tím rực rỡ. Không khí trong veo đầy mát lạnh, hít một hơi, vị ngọt lan đến tận gót chân. Trong kênh rạch và đồng lúa nước ven đường, dòng nước chảy xiết, róc ra róc rách không ngừng. Ếch nhái và côn trùng đồng loạt hát ca khiến cho một chú chó ướt sũng chạy đến, giận đùng đùng đuổi bên bờ ruộng, sủa ầm ĩ với thứ âm thanh chẳng biết vang lên tự nơi nào.
Lúc đó, đột nhiên tôi có một ảo giác: chị tôi sắp biến mất rồi, chị sắp bay lên trời biến thành áng mây rạng rỡ kia, từ đó trở đi, chị sẽ chỉ bay lơ lửng trên cửa sổ xa xăm ở phòng tôi. Tôi vội giơ tay giữ chặt lấy cánh tay chị.
Tôi la to: “Chị!”
Chị vỗ vào tay tôi: “Về nhà đi, ngày mai khai giảng rồi.”