Rất nhiều thời khắc trong lịch sử, nỗi bi thương bắt nguồn từ niềm vui, chẳng biết câu ngạn ngữ cổ “vui quá hóa buồn” của Trung Quốc có phải có nghĩa như vậy không.
Mùa thu năm 1943, Trung Quốc đang chìm đắm trong gian khổ nhận được một chút niềm vui từ đất nước Ý xa xôi, lạ hoắc. Ban đầu là vào cuối tháng Tám, trên báo có đưa tin tức, quân đồng minh đã tiến đánh vào đảo Sicilia, thuộc địa phận chiếm đóng của quân phát xít. Anh tôi cầm bản đồ thế giới, chỉ cho chúng tôi xem, mới phát hiện đấy là hòn đảo nhỏ nằm trên biển Địa Trung Hải thuộc châu Âu, tách biệt hoàn toàn so với vùng lãnh thổ nước Ý. Anh tôi khẳng định chắc nịch: “Quân đồng minh dùng chiến hạm mạnh mẽ đổ bộ, đảo nhỏ không chống đỡ được, nhưng nếu đánh vào nước Ý thì e là không dễ như vậy, vì thế không nên lạc quan quá.”
Anh Khắc Tuấn là sinh viên đại học, lời của anh có quyền uy tuyệt đối trong đám anh em chúng tôi, mấy đứa lập tức bội phục không hề dị nghị.
Kết quả là chưa đầy hai tháng, tình hình chiến tranh đã diễn ra trái ngược hoàn toàn với suy luận của anh tôi: đầu tháng Chín, quân đồng minh dễ dàng đổ bộ lên lãnh thổ nước Ý; năm ngày sau, Ý tuyên bố đầu hàng; giữa tháng Mười, Ý tuyên chiến với Đức.
Báo chí miêu tả chuyện cười của đội quân nước Ý bằng những mẩu tin dài lê thê. Có bài viết: lúc quân đồng minh đổ bộ đã gặp phải con báo châu Mỹ mạnh nhất, hung hăng nhất, khó chống cự nhất trong vườn thú địa phương, nó cắn hai binh lính Mỹ bị thương. Còn có bài viết: một cứ điểm trọng yếu của Ý đã giương cờ trắng đầu hàng ngay sau khi quân Anh bắn hết vài băng đạn, tướng chỉ huy quân Ý nghiêm túc nới với tướng chỉ huy quân Anh: “Chúng tôi đã bắn hết viên đạn cuối cùng rồi.” Mà lúc đó, những thùng súng ống, đạn dược của nước Ý sau lưng ông ta còn không tìm được dụng cụ mở thùng.
Anh tôi đọc xong báo, kìm lòng không đặng mà bật cười, nói: “Mấy người Ý này buồn cười quá, chỉ giỏi đánh trận trên giấy, chạm đến đạn thật là tè ra quần ngay.”Rồi nói tiếp: “Nếu người Nhật mà cũng giống người Ý, ta đã đuổi được chúng đi từ lâu rồi.”
Nhưng chúng tôi cũng biết, Nhật Bản không giống Ý, chúng là bọn chém giết đến hai mắt đỏ ngầu vẫn muốn lấy được Trung Quốc.
Đại hội thể dục thể thao mùa thu kết thúc chưa được mấy ngày, Không quân Hoàng gia Anh đóng tại bãi bồi Hoa Tây biết được sự rầm rộ của đại hội thể dục thể thao, trong lòng ngứa ngáy khó chịu, liền tụ họp thành một đội bóng, hạ chiến thư với năm trường đại học trên bãi bồi, đòi tổ chức một trận đấu giữa sinh viên đại học và sĩ quan không quân. Tin tức này lập tức bùng nổ trong đám nam sinh đại học. Trận đấu thắng hay thua đều không quan trọng, mà chủ yếu là vì vinh quang của dân tộc, chẳng lẽ anh tài của năm trường đại học còn không đọ nổi gánh hát rong lưa thưa vài tên lính không quân hợp thành?
Sau khi khẩn cấp hội ý, thầy giáo thể dục của năm trường đại học nhanh chóng chọn ra những người mạnh nhất, hợp thành đội liên kết giữa các trường đại học. Anh tôi cũng là một thành viên trong đó, hơn nữa còn được nằm trong đội hình ra sân chính thức. Họ gấp rút tập luyện được dăm ba ngày thì hai bên quyết đấu trong sân trường Đại học Hoa Tây. Đội bóng nước Anh lái chiếc xe tải màu xanh đến, mấy thanh niên tóc vàng, mắt xanh vừa tiến vào sân trường là đu lên hai bên thành xe, mặt mày hớn hở, không ngừng huýt sáo và hôn gió với những nữ sinh mà họ cảm thấy xinh đẹp, bước ra sân với tâm trạng vui vẻ. Khác biệt hoàn toàn với những binh lính nước Anh đang hớn ha hớn hở, mười một thành viên của đội bóng liên minh các trường đại học vào sân với trạng thái căng thẳng như đang bày trận đón địch, đến cả động tác khởi động trước thi đấu cũng không hề lơ là.
Ba vòng trong ngoài trên dưới của sân vận động trên bãi bồi Hoa Tây toàn người là người, đến cả thị trưởng Thành Đô cũng tới làm khách quý. Phóng viên các tờ báo nghe tin đến phỏng vấn tấp nập vô cùng, thời tiết vốn se se lạnh, song vì họ phải chen tới chen lui nghe ngóng tin tức mà mồ hôi túa ra khắp người.
Bởi tôi và Phạm Thư Văn không đủ sức chen vào đám người kia nên đành phải lùi ra tìm cách khác, chúng tôi trèo lên một giá bóng rổ phía xa xa để quan sát toàn bộ trận đấu. Phạm Thư Văn trèo được lên cũng mệt bở hơi tai, mặt mũi trắng bệch, không nhịn nổi mà vỗ ngực nói rằng, bạn ấy chưa bao giờ vì một cuộc vui mà đánh cược tính mạng bản thân như thế này cả.
“Cậu thôi đi.” Tôi nói bạn ấy: “Con gái đều đến ngắm mấy anh đẹp trai nước Anh, cậu cũng vậy chứ gì.”
Cô bạn đỏ bừng mặt: “Tớ không thèm nhé, tớ muốn xem anh cậu đá bóng.”
Mặc kệ bạn ấy muốn xem thật hay xem giả, dù sao lời này cũng khiến tôi vui ngất ngây.
Tôi đã không còn nhớ rõ trận đấu hôm đấy diễn ra như thế nào, chỉ nhớ cuối cùng kết quả chung cuộc là 5 – 3, “5” điểm là đội liên minh các trường đại học, còn “3” điểm là đội bóng nước Anh. Những tiếng hoan hô vang dội trên sân như động đất sóng thần, khi trận đấu kết thúc, lũ con trai ôm chầm lấy bọn con gái, nhảy nhót, hét hò. Mà đội bóng của quân đội thua trận dường như cũng không hề tức giận, họ cười tươi rói đi vòng quanh sân cúi chào khán giả, làm đội con gái reo hò chói tai.
Thế nhưng, anh tôi đã bị thương một cách vẻ vang khi trận đấu sắp kết thúc, anh ấy bị một tiền đạo người Anh cao lớn va phải, lăn mấy vòng trên mặt đất, ngồi bệt xuống, nhe răng trợn mắt, mấy cầu thủ dự bị phải vào sân khiêng anh ra. Tối hôm đó, anh được đưa đến bệnh viện Đại học Hoa Tây, bác Phạm chẩn đoán anh bị rạn xương mắt cá chân, phải bó thạch cao, quấn từng tầng băng trắng, sau đó, anh được các bạn học khiêng về nhà. Suốt cả nửa tháng sau đó, ngày nào Thẩm Thiên Lộ cũng đẩy xe đạp đưa anh đến trường, rồi sau khi tan học lại đến giảng đường của Đại học Yên Kinh đón anh về. Nửa tháng sau dỡ thạch cao, vết sưng hơi tan, anh tôi mượn một cái gậy chống tập bước, may mà lần bị thương này đã khiến anh trở thành nhân vật truyền kỳ trong trường, tất cả mọi người đều nhiệt tình giúp đỡ anh.
Vết thương ở mắt cá chân của anh tôi vẫn chưa khỏi thì Lựu Viên lại có thêm một người nữa nằm cáng trở về nhà, đó là bác Đào ở tầng dưới. Vài năm trước, bác mang về một con gấu nhỏ từ Tây Tạng, đó là một trong những ký ức vui vẻ thời thơ ấu của chúng tôi. Thế nhưng lần này bác lại mang về nhà một giống sinh vật nguyên sinh đáng sợ nhất khu vực Tây Nam lúc bấy giờ, đó là vi trùng sốt rét.
Một tháng trước, bác Đào dẫn theo đội khảo sát đi vào vùng Đại Lương Sơn, thu thập tư liệu thổ ty của dân tộc Hắc Di ở vùng núi đó. Trước khi đi, bác lên tạm biệt cha tôi, cha tôi rất lo lắng cho sự an toàn của đội bác ấy, vì đó là nơi rừng thiêng nước độc, hoang dã sơ khai. Ông còn hỏi lại bác ấy lần nữa, có bắt buộc phải đi không. Bác Đào hùng hồn trả lời: “Tuy rằng Lương Sơn nguy hiểm, nhưng cũng không bì được với tiền tuyến, biết bao đồng bào đang chiến đấu, tắm máu nơi tiền tuyến, cớ gì tôi phải tiếc mạng này.”
Họ ngồi thuyền từ Thành Đô, men theo dòng Mân Giang chảy xuôi xuống Nghi Tân, ngược dòng sông Kim Sa đến Bính Sơn, cả đội thuê hai người dân tộc Di bản địa dẫn đường, sau khi đi vào khu rừng nguyên sinh nơi giao với Đại Tiểu Lương Sơn, sau một quãng đường nguy hiểm trùng trùng, cuối cùng cũng đến được đất Di.
Bác Đào không bỏ mạng tại đất Di, nhưng không may lại nhiễm phải căn bệnh sốt rét ác tính của vùng đó, bác liên tục lên cơn rét, sốt cao, tay chân co giật, thần chí hốt hoảng, người bạn dân tộc Di của bác lấy dây mây xanh bện thành cáng, vượt qua trăm nghìn gian khổ mới đưa được bác quay về Thành Đô.
Chúng tôi mời bác sĩ giỏi nhất của bệnh viện Đại học Hoa Tây đến khám, cũng thử một vài loại thuốc nhưng hoàn toàn không có tác dụng. Nhà mẹ vợ bác Đào ở Tứ Xuyên, có quen với vài bác sĩ đông y nổi tiếng, bèn mời lần lượt từng người đến, kê vài toa thuốc, chỉ đơn giản là sài hồ, bán hạ, thanh hao, cạy miệng bác ấy đổ thuốc vào, chỉ một lúc sau, bác lại nôn ra, thế là toi công, làm cho cả căn phòng toàn mùi đăng đắng chua chua.
Vài ngày trôi qua mà bác Đào chỉ còn lại hơi tàn, người bác vốn dĩ cao lớn vui vẻ luôn miệng nói những thứ tiếng thật đẹp giờ đây yếu ớt gầy gò, bác nằm trên giường bệnh mà còn chẳng nhìn rõ đường nét dáng người, sắc mặt xanh xao vàng vọt, gò má hõm xuống rất sâu. Mỗi khi cơn sốt rét kéo đến là bác nằm trên giường run bần bật, lúc sốt cao, hai mắt trợn tròn, mũi và miệng nóng tựa như sắp phun ra lửa, mỗi lần tôi đứng ở cửa sổ nhìn bác là y như rằng sẽ nhìn thấy bác gái đang lặng lẽ dùng khăn chấm nước mắt.
Có một ngày, lúc ăn cơm tối, mẹ thở dài với cha: “E là anh Đào hết đường cứu chữa rồi. Đang yên đang lành ở trong nhà, lại cứ đòi...”
Cha đặt đũa xuống, đứng bật dậy, nghiêm mặt quát mẹ: “Em đừng nói mấy lời nhảm nhí ấy nữa! Từ xưa tới nay trên thế giới này, không chỉ có một người hy sinh vì khoa học, vì chân lý. Anh Đào rất giỏi, nghĩ được, làm được, tráng sĩ đổ máu trên sa trường, anh ấy... anh ấy...”
Cha đột nhiên không nói tiếp nổi, ông rời khỏi bàn ăn, quay người đi về phòng, đóng sầm cửa lại. Chốc lát sau, bên trong truyền đến tiếng nức nở bị kìm nén.
Mẹ tôi sợ ngây người, sững sờ ngồi bên bàn ăn, hồi lâu sau vẫn không nhúc nhích nổi.
Bác Phạm đến tìm cha tôi, nói bệnh của bác Đào chỉ có thể dùng “Quinin” mới có hy vọng. Cha tôi hỏi, “Quinin” là gì? Bác Phạm đáp đó là một loại thuốc đặc trị sốt rét, còn gọi là Ký Ninh, sinh trưởng trong rừng cây canh ki na ở vùng nhiệt đới, Trung Quốc không có loại thuốc này.
“Phải đi đâu để tìm đây?” Cha tôi nắm chặt tay bác Phạm.
“Tôi nghe nói trong đoàn cứu hộ hội chữ thập đỏ Trung Quốc có đấy, do một Hoa Kiều ở Indonesia quyên tặng. Indonesia sản xuất loại thuốc này. Năm ngoái, quân viễn chinh sang Miến Điện, đoàn cứu hộ đi theo phát cho mỗi binh sĩ một phần.”
“Đoàn cứu hộ ấy ở đâu?”
“Quý Dương.”
Cha tôi ngửa người ra sau: “Xa quá, đi đi về về mất bao nhiêu lâu? E là anh Đào không đợi nổi.”
“Là thế này, tôi vừa mới biết được một tin tức, gần đây đoàn cứu hộ có phân đội trú đóng tại Nghi Tân, cách Thành Đô chưa đến ba trăm kilomet. Bạn thân của tôi, giáo sư Lâm Chí Bạch của bệnh viện Hiệp Hòa là đội trưởng của phân đội đấy.”
“Vậy được, anh Phạm mau viết thư đi, tôi phụ trách tìm người đi Nghi Tân!”
Từ Thành Đô đến Nghi Tân có thể đi theo đường thủy trên Mân Giang, lúc đi thì xuôi dòng, đi thuyền nhiều nhất là hai ngày, lúc về đi ngược dòng, nhưng cũng chẳng quá ba ngày. Dù thế nào cũng trong năm ngày là có thể lấy được thuốc.
Cha bảo tìm người, nhưng ông là một giáo sư đại học, có thể tìm được ai chứ? Huống chi lấy thuốc là việc riêng. Mà lúc này chân anh tôi chưa lành, không tiện đi lại, chị tôi là con gái, cha không yên tâm để chị ra ngoài một mình, vậy nên nhiệm vụ đi Nghi Tân lấy thuốc rơi vào tay Thẩm Thiên Lộ. Cha tôi gọi riêng anh ấy lại, luôn miệng dặn dò: “Đi nhanh về nhanh, không thể chậm trễ, nếu cứu được bác Đào thì cháu chính là công thần.”
Kết quả Thẩm Thiên Lộ không chỉ đi năm ngày, mà là đằng đẵng cả một tuần, bảy ngày. Anh lên thuyền xuôi dòng xuống đến Nghi Tân, tìm phân đội cứu hộ, đưa họ bức thư của bác Phạm xin thuốc Ký Ninh, lấy giấy dầu bọc lại cẩn thận nhét vào trong ngực, cả quá trình suôn sẻ thuận lợi. Thế nhưng, trên đường về đột nhiên gặp phải thủy triều dâng lên, thuyền không tiến được, phải lui, bị đẩy sang bờ sông, đụng vào đá núi lật nhào. May mà Thẩm Thiên Lộ bơi giỏi, trôi dạt trên sông rất lâu mới được một con thuyền khác cứu, trải qua bao trắc trở mới về được đến Thành Đô. Tiếc là khi anh lao thẳng vào nhà bác Đào, móc ra gói thuốc giấy dầu vô cùng đáng quý kia, bác Đào đã qua đời ba ngày rồi.
Thẩm Thiên Lộ ngồi trên bậc thang khóc òa. Bác Phạm đi qua ôm anh an ủi: “Con trai à, nghe bác nói, dù cho không chậm trễ hai ngày cũng không kịp, chúng ta phải nghe theo sắp xếp của Thượng Đế.”
Thẩm Thiên Lộ vẫn cứ hổ thẹn, khăng khăng tự nhận rằng đó là lỗi của anh. Chuyện này đã đả kích anh rất nhiều, suốt một thời gian dài anh chán nản ủ rũ, ra sức học hành, không trò chuyện với ai khác.
Mẹ thì vẫn sợ hãi chuyện anh bị lật thuyền rơi xuống nước, không chỉ một lần tôi nghe mẹ cằn nhằn cha: “Để đứa bé mười tám tuổi đi đường gian nan hiểm nguy đến thế, ông điên rồi sao? Lỡ như không may...”
Cha buồn bực không trả lời lấy một câu, không biết có phải ông cũng đang hối hận và sợ hãi không nữa.
Nhưng rõ ràng là cha mẹ tôi càng thương xót Thẩm Thiên Lộ hơn, tôi có thể cảm nhận được điều này thông qua ánh mắt mỗi khi đi ra đi vào nhìn Thẩm Thiên Lộ của họ.
Khi mùa thu đón những cơn gió lạnh hơn, các chủ hộ ở Lựu Viên chúng tôi lại đón thêm một tin buồn: chiếc máy bay vận tải cỡ lớn mà Mã Khắc lái không may rơi vỡ trên đường bay bướu lạc đà. Lúc đó, anh ấy đang vận chuyển loại vật tư chiến đấu quý giá bậc nhất, đó là nguyên liệu dầu đặc biệt dành cho máy bay chiến đấu. Bởi vậy lúc máy bay rơi xuống, chiến hữu của anh ấy ở trên không trung đã nhìn thấy làn khói đặc khổng lồ ngùn ngụt bay lên từ trong khe núi.
Một vị sĩ quan đồng nghiệp cùng đi với Mã Khắc ở đội Phi Hổ đã vượt nghìn dặm xa xôi để mang túi di vật của anh ấy từ Côn Minh, Vân Nam đến nhà bác Phạm ở Thành Đô. Cậu con trai người Mỹ kia nói, đây là túi đồ Mã Khắc từng dặn dò khi còn sống, anh ấy bảo bác Phạm Mã Lệ sẽ giúp mình quay về quê nhà.
Bác Phạm Mã Lệ ôm túi xách quân dụng cao hơn nửa người, ánh mắt đờ đẫn, lẩm bẩm thì thào: “Được, tôi sẽ đưa Mã Khắc về, thằng bé sẽ về đến nhà, nông trường ở quê nhà Kentucky vẫn còn cối xay gió mà thằng bé thích nhất.”
Cậu con trai người Mỹ kia trang trọng thực hiện một động tác chào kiểu quân đội rồi tạm biệt rời đi. Bác Phạm Mã Lệ lặng người đứng đối diện cửa sổ một lúc lâu rồi ngồi xuống đàn. Từ chiều đến tận đêm, tiếng đàn trong nhà bác Phạm khi thì bi thương, lúc chợt sục sôi vang mãi không ngừng. Tất cả chủ hộ trong Lựu Viên ngồi trong nhà nghe đều thở dài, rơi nước mắt cho Mã Khắc đáng yêu ở đội Phi Hổ kia.
Sau này kháng chiến thắng lợi, đường biển ở Thái Bình Dương được lưu thông, gia đình bác Phạm lập tức mua vé tàu, mang theo túi xách quân dụng trở về nước Mỹ. Nửa cuộc đời dạy học và chữa bệnh trên bãi bồi Hoa Tây, Phạm Thư Văn, con gái của họ cũng lớn lên trên mảnh đất ấy, lúc chia xa bác Phạm nghĩ gì nhỉ? Phạm Thư Văn nghĩ gì nhỉ? Tôi không thể nào biết được.
Hôm sau, Phạm Thư Văn chạy lên nhà tôi tìm Thẩm Thiên Lộ, đưa cho anh ấy một mô hình máy bay chiến đấu màu trắng bạc.
“Trong di thư, Mã Khắc bảo tặng mô hình này cho anh.”
“Mã Khắc còn để lại di thư ư?” Thẩm Thiên Lộ không dám tin.
Phạm Thư Văn trả lời: “Đúng vậy, mỗi lần cất cánh họ đều phải để lại một bức di thư, bởi vì đường bay bướu lạc đà quá nguy hiểm.”
Mô hình kia to bằng lòng bàn tay, tinh xảo đáng yêu, đầu máy bay thậm chí còn vẽ hoa văn đầu cá mập. Trước đây khi trao đổi thư với Mã Khắc, Thẩm Thiên Lộ đã từng nhắc đến chuyện anh ấy muốn có một bức ảnh Mã Khắc chụp cùng đầu cá mập. Trong di vật không có ảnh, có lẽ Mã Khắc không kịp để lại. Những năm đó, muốn chụp ảnh chẳng phải chuyện dễ dàng gì.
Thẩm Thiên Lộ xin mẹ tôi một sợi dây gai thêu đế giày, xỏ qua hai cánh máy bay, thắt nút, treo trên màn của anh ấy. Mỗi tối, anh ấy nhìn máy bay mà chìm vào giấc ngủ. Có lẽ, anh ấy mơ thấy Mã Khắc, mơ thấy những đốm tàn nhang màu cà phê dễ thương trên chóp mũi Mã Khắc, đôi bàn tay lông lá xù xì giống tay gấu và còn cả cơ bắp nổi cuồn cuộn khi đánh cầu lông. Thế nhưng, anh ấy sẽ không mơ đến cảnh tượng lúc Mã Khắc hy sinh, bởi vì anh ấy chưa từng đến dãy Himalaya, núi Cao Lê Cống, núi Hoành Đoạn, không thể tưởng tượng ra được cảnh chiếc máy bay vận tải dòng C với độ cao khi bay không vượt quá năm nghìn mét, phải ì à ì ạch băng qua đường bay bướu lạc đà với độ cao trung bình hơn năm nghìn mét là một hành trình bỏ mạng bi thương đáng sợ đến nhường nào.