Trong một thời gian ngắn, bác Đào ra đi vì bệnh, Mã Khắc hy sinh, bầu không khí u ám của nỗi bi thương bất tri bất giác đè nặng lên Lựu Viên. Mỗi lần tôi đi ra đi vào viện sẽ đều vô thức nhìn về cửa nhà bác Đào, mong ngóng sẽ một lần nhìn thấy người bác đáng yêu đội chiếc mũ nỉ kiểu dân tộc Tạng, mặc chiếc áo vest nhung, dựa người lên khung cửa kỳ quái nhìn tôi cười vang. Có những lúc, tôi lại nhớ đến lần Mã Khắc đến chơi ấy, bác Đào nằm dài trên bàn, cất cao giọng ngâm nga bài tụng ca nổi tiếng “Ode To A Nightingale” của Keats.
Tôi hỏi Phạm Thư Văn: “Tại sao người phải ra đi sớm lại là người chúng ta yêu thương nhỉ?”
Phạm Thư Văn cúi đầu ngẫm nghĩ một hồi rồi buồn bã nói: “Có lẽ Thượng Đế cũng thích họ.”
Tôi không phục: “Chúng ta mang tín ngưỡng với Thượng đế là để hy vọng Thượng Đế ban phúc cho muôn dân, thế nhưng Ngài thì không, Ngài mang những người chúng ta yêu thương nhất đi rồi.”
Phạm Thư Văn nhìn tôi với khuôn mặt trắng như tờ giấy, vô cùng kinh ngạc: “Tranh Tử! Mau nhổ nước miếng đi.”
Tôi không thèm nhổ nhé. Nếu như Thượng Đế cứ mang người ta đi thì Ngài sẽ chẳng để chúng tôi vào mắt đâu.
Từ lúc anh tôi học khoa Tin tức, trong nhà bắt đầu có thêm rất nhiều báo. Có Đại Công Báo này, Nhật báo Trung Ương này, Nhật báo Tân Hoa nữa này, cả những tờ báo ít người biết đến như Tuần san ba ngày đất nước khốn khó. Anh tôi bảo Tuần san ba ngày đất nước khốn khó có lẽ giống với Nhật báo Tân Hoa, đều là báo của Đảng Cộng Sản, bởi vì những tin tức hay được đăng trên báo nhất là tin chiến thắng của Bát Lộ Quân, tin tức đến từ Diên An, còn có cả những cuộc thuyết giảng của những người có tư tưởng cấp tiến nổi tiếng. Anh tôi bảo sau khi đọc những tờ báo đó, anh mới cảm thấy Trung Quốc vốn dĩ không phải là đống hoang tàn khổng lồ bị chiến tranh phá hủy, bởi vì trong đống hoang tàn ấy có những sức sống mãnh liệt đang hừng hực sục sôi, có những mầm non phá đất đâm chồi khỏe mạnh mà phát triển, vì thế sau này Trung Quốc rất có hy vọng.
Lời của anh sâu xa khôn cùng, rất nhiều chuyện anh nói tôi không hoàn toàn hiểu hết. Tôi thích nhất là chọn nội dung hay ho trên báo để đọc. Có lần tôi thấy báo viết, cảnh sát bắt được gián điệp trong một quán trọ ở Thành Đô, người đó nói tiếng chuẩn Tứ Xuyên, mặc trường sam, ăn cay, đánh mạt chược, pha trà thưởng trà, có vợ có con, chẳng khác gì người Thành Đô cả. Quán trọ kia cũng là hắn ta mở ra để dễ bề giao du với người đi từ Nam chí Bắc, thu thập tình báo cho quân Nhật Bản.
Tôi nhắc nhở anh: “Chủ khách sạn nhỏ trong ngõ Đăng Trản kia hình như cũng có vấn đề đấy, nom dáng vẻ cứ lấm la lấm lét.”
Chị đứng cạnh dẩu môi coi thường: “Gián điệp mà để em nhìn ra được thì có còn là gián điệp nữa không?”
Tôi không phục: “Vậy chị bảo gián điệp phải như thế nào?”
“Như thế nào ư? Không bắt mắt nhất! Ném vào trong đám người là tìm không ra mới xứng gọi là gián điệp, không bị người ta chú ý. Anh nói có đúng không?”
Anh tôi nói có lý.
Nhưng tôi không tin. Tôi cảm thấy ít nhất thì đôi mắt của gián điệp không giống đôi mắt của người thường, người bình thường có một đôi mắt thì hắn ta phải có hai, trong mắt còn có mắt mới dễ dàng phát hiện tình báo.
Nghĩ như vậy, mỗi thứ Sáu từ trường về nhà, mỗi ngày Chủ nhật từ nhà đến trường, tôi đều nhìn ngang ngó dọc đoàn người qua lại, đặc biệt chú ý đến đôi mắt của họ đang lẩn tránh tôi hay đang lén lén lút lút dò xét tôi. Tôi hy vọng có một tên gián điệp không cẩn thận bị tôi phát hiện, tôi sẽ gọi ngay người trên đường giúp đỡ, gô cổ hắn ta giải tới cục cảnh sát, vậy thì xem như tôi lập được chút công nhỏ bé cho cuộc kháng chiến rồi.
Bước vào mùa đông, chiến trường truyền đến tin tức khiến người ta lo lắng vô cùng. Sau khi quân viễn chinh lần đầu tiến vào Miến Điện thì bị quân Nhật đánh bại, chúng đuổi theo vượt qua biên giới, chiếm lĩnh Uyển Đinh, Mang Thị. Tiến thẳng đến cầu Thông Huệ bên Nộ Giang, binh lính canh giữ phải nổ cầu chặn đánh mới xem như cản được bước tiến quân Nhật. Sau đó, quân Nhật bị chiến thắng làm cho mụ mị đầu óc, chúng điều đến hàng loạt máy bay hỏa lực với mong muốn vượt qua Nộ Giang hiểm nguy, tiến công lên thượng du Trùng Khánh. Quân viễn chinh thề sống chết chống cự, đánh giằng co với quân Nhật ở hai bên bờ Nộ Giang, đánh qua đánh lại, hai bên đều chịu tổn thất vô cùng lớn.
Thêm vào đó, trong đại bản doanh của quân Nhật, thủ tướng Nhật Bản Hideki Tojo mong mỏi sớm ngày kết thúc chiến tranh với Trung Quốc liền không tiếc tiền vận chuyển vật tư chiến lược từ Nhật Bản sang, điều động quân đội từ các khu chiếm cứ phương Nam, phái đi hàng loạt đặc vụ xâm nhập vào Tứ Xuyên, chuẩn bị tấn công từ phía Vũ Hán, Trường Sa để đánh hạ Thành Đô, Trùng Khánh, tiến tới thế cục nắm giữ Trung Quốc trong lòng bàn tay.
Chỉ trong nháy mắt, không khí chiến tranh bao trùm lên chúng tôi, cục diện lại một lần nữa bước vào thế căng thẳng, tựa như đã trở về bầu không khí mờ mịt không còn đường xoay xở lúc chiến tranh bùng nổ mấy năm trước.
Trường học có đầu bếp mới, lần đầu tiên nhìn thấy, tôi đã cảm thấy kỳ quái: đầu bác ấy rất to, người lại gầy đét, làn da vàng vọt, răng đen, mí mắt lúc nào cũng cụp xuống, rồi lén la lén lút nhìn người ta từ khe hở của hai mắt, mờ ám lắm. Vả lại, cách bác đi đứng cũng rất đặc biệt, hai chân vòng thành hình chữ O, bàn chân lúc nào cũng như đang đánh nhau, làm cho người bác cứ như đang đung đưa chao đảo, chỉ chực ngã xuống bất cứ lúc nào.
Bác đầu bếp họ Đổng, hiệu trưởng rất khách khí bảo chúng tôi gọi bác là thầy Đổng. Bác trông thì kỳ quái đấy nhưng nấu ăn ngon lắm, chỉ làm món đậu phụ hoặc miến xào thịt bình thường thôi mà cũng đủ để khiến chúng tôi cắm đầu cắm cổ vừa hít khí lạnh vừa và từng miếng lớn.
Chủ nhật về nhà, tôi kể cho Phạm Thư Văn nghe tình hình của thầy Đổng. Tôi nói tôi nghi ngờ bác là một gián điệp của Nhật Bản.
“Hả?” Bạn ấy trừng to mắt, tuy là khó hiểu nhưng lại rất hưng phấn.
“Cậu nói xem, vào lúc này tự nhiên bác ấy chạy đến trường chúng mình, lẽ nào có mục đích gì sao?”
Phạm Thư Văn mở tròn đôi mắt trong veo màu xanh ngọc bích, nhìn đăm đăm vào tôi không chớp mắt, luôn miệng “ừ, ừ”.
Tôi tiếp tục: “Cậu xem, chân vòng kiềng, bàn chân chụm vào nhau, người Nhật Bản chúng ta thấy trên phim cũng như thế đấy.”
Lúc đó ở rạp chiếu phim Thành Đô, các bộ phim sẽ chọn ra một đoạn dùng để tuyên truyền trước khi bước vào chiếu chính thức, những người Nhật Bản xuất hiện trong đoạn phim tuyên truyền kia luôn luôn mang dáng vẻ lùn tịt, chân vòng kiềng, râu cá trê, mắt tam giác, cao sàn sàn bằng nhau.
Phạm Thư Văn cố gắng chất vấn: “Chẳng phải người Trung Quốc các cậu cũng thường có vẻ bề ngoài như vậy mà?”
“Linh tinh! Không thể nào!”
Bạn ấy lập tức e sợ: “Tranh Tử, cậu giận đấy à?”
Đương nhiên là tôi giận rồi, người Trung Quốc sao mà trông giống người Nhật Bản được chứ?
“Tớ xin lỗi.” Phạm Thư Văn dè dặt: “Tớ chỉ nói là, cũng có những người như vậy, rất ít rất ít thôi. Thật ra tớ, đúng vậy, thật ra tớ chưa hề gặp người Nhật Bản, tớ chỉ là nói...” Rõ ràng bạn ấy đang bắt đầu nói năng lộn xộn.
Tôi quyết định tha thứ cho bạn ấy, Phạm Thư Văn là người Mỹ, có lẽ cô bạn thật sự không hiểu được tướng mạo của người châu Á.
Thế nhưng, thầy Đổng với dáng vẻ lén lút kỳ quái kia thật sự không thể khiến tôi thôi nghi ngờ. Tôi quan sát hành động của bác ấy trong trường, dù cho là mấy em nhỏ lớp bảy hay là cô hiệu trưởng với gương mặt luôn luôn nghiêm khắc, chỉ cần bất chợt gọi bác ấy “thầy Đổng”, bác ấy liền run bần bật, sau đó khép na khép nép đứng dậy, buông thõng hai tay, lén lút liếc đối phương, dường như đang suy nghĩ xem tiếng gọi này có ý tốt hay ý xấu. Sau đó, nếu như là hiệu trưởng, bác sẽ nhanh chóng khoe hàm răng đen sì, kéo ra một nụ cười cực kỳ khó coi. Còn nếu như là học sinh, đặc biệt là học sinh lớp bảy nhỏ tuổi nhất, bác sẽ cụp mắt, chầm chậm bước đi, chẳng thèm để ý.
Có một đợt, tôi cố tình thăm dò bác, chạy đến trước nhà bếp đá cầu, vừa đá vừa vừa rón rén dịch đến gần cái lán nhỏ nơi bác ngủ. Sau đó, nhân lúc bác cúi đầu hái rau, tôi nhấc chân đá thật mạnh, quả cầu lông gà đâm sầm vào cửa tò vò của cái lán. Tôi khoa trương kêu “Ui da” một tiếng rồi vọt thẳng vào lán của bác.
Nói thì chậm mà làm thì nhanh, khi tôi mới đặt một chân vào cửa tò vò, mắt vẫn chưa thích nghi với bóng tối, bác đã vứt ngay dao đi, sải bước bổ nhào đến, túm cổ áo tôi từ đằng sau như diều hâu tóm gà con, kéo tôi quay lại.
“Đứa bé ngốc này! Chẳng ra thể thống gì cả! Định qua mặt ông đây đấy à. Lần sau còn không đánh cho kêu cha gọi mẹ thì còn không biết trời cao đất dày là gì!”
Bác nghĩ tôi trăm phương nghìn kế làm thế là để chạy vào lán lấy trộm đồ chăng? Bác chỉ là một đầu bếp ở trong cái lán rách, có thứ đồ gì đáng giá không thể để người ta thấy mà phải cảnh giác đến vậy.
Còn nữa, động tác sải bước nhào đến vừa nãy của bác ấy hoàn toàn không giống dáng điệu chậm rì rì thường ngày, đây rõ ràng chẳng phải là người luyện võ có bản lĩnh đấy sao?
Tôi càng thêm nghi ngờ bác ấy.
Ngay sau đó, tôi lại phát hiện thêm một bí mật của bác ấy: Mỗi ngày cứ vào khoảng hai giờ chiều, lúc bữa trưa đã qua và thời gian chuẩn bị bữa tối chưa đến, bác liền nhìn trước ngó sau đi ra khỏi trường, vội vội vàng vàng chẳng biết đi đâu. Hai giờ chiều là lúc chúng tôi đang học bài, có khi nhìn qua cửa sổ, tôi sẽ thấy bóng hình lom khom của bác chợt thoáng qua dưới tầng. Tôi sốt ruột lắm, bởi vì không có cách nào nhìn theo đến tận cùng. Chẳng dễ gì mới chịu được đến lúc tan học, tôi chạy ngay ra phòng bếp phía sau, quả nhiên nơi đó không có ai, cửa phòng bếp mở rộng, củi rơm chất thành đống bên bếp, rau cỏ đã được rửa vẫn còn ướt sũng được đặt trong chậu, mà trên chiếc cổng tò vò của cái lán kia thì treo một chiếc khóa sắt to đùng gỉ sét.
Trời ạ, người như thế này, hành động quỷ dị đến thế cực kỳ có khả năng là gián điệp, nếu không mau chóng tóm bác ấy ra, vạch trần thân phận thì sẽ làm hại biết bao người dân Thành Đô chúng tôi ấy chứ.
Lại đến cuối tuần về nhà, tôi hạ quyết tâm sẽ làm người theo dõi, xem xem người đàn ông họ Đổng kia rốt cuộc làm trò gì.
Tôi cầu xin anh chị làm hộ vệ cho mình, cái chuyện theo dõi người này, nói sao nhỉ, là thế nào cũng có nguy hiểm, lỡ như tôi bị phát hiện thì sao? Bác ấy móc ra cái súng ngắn, “pằng” một phát bắn chết tôi thì sao? Tôi sẽ chết ở bên ngoài mà chẳng ai hay biết! Còn nữa, nếu như bác ấy bị chúng tôi phát hiện đúng là gián điệp, phải có một người phụ trách trông chừng và một người phụ trách báo tin đúng không? Mỗi một mình tôi thì làm sao làm được chuyện lớn đến thế?
Anh Khắc Tuấn thì đang bận sắp xếp thu dọn giấy báo, chọn ra những trang giấy còn dùng được cắt ra đóng thành quyển. Những trang báo cũ ấy chất đống trên bàn và trên đất. Cứ cuối mỗi tuần, anh lại bỏ ra một, hai tiếng làm việc này. Anh trả lời tôi mà không buồn ngẩng đầu: “Không phải anh không giúp đâu, mà là anh bận quá.”
Tôi cầu xin anh: “Chỉ một lát thôi mà, nhìn một cái là về thôi ạ.”
Anh cười tủm tỉm, nói: “Nhìn một cái vậy thì em tự đi đi, nhìn thấy gì về báo cáo với anh cũng không muộn.”
Tôi giận, nói: “Muộn rồi! Người ta đưa tin tức đi hết rồi!”
Anh nhún vai, không ngó ngàng đến tôi nữa.
Chị vui sướng cười trên nỗi đau của người khác, chị vẫn thích nhất là việc này mà: “Tranh Tử, chị cho em ý này, lấy mảnh gỗ gọt đi thành súng ngắn, nửa đêm nửa hôm thình lình dí vào gáy bác ta, xem xem bác ta có khai không.”
Tôi không buồn trả lời nữa, tôi biết anh chị không tin tôi, trêu chọc tôi như trêu chọc một đứa trẻ.
Thẩm Thiên Lộ ngồi một mình trong phòng “gặm” quyển từ điển tiếng Anh to đùng, nghe thấy chúng tôi nói chuyện thì đi ra bảo: “Ờ, chuyện này, hay là anh đi với em nhé?”
Chị tôi hơi quái gở: “Giỏi giang thật đấy, không chừng bác đầu bếp kia là gián điệp thật thì hai người lập công lớn rồi.”
Nhìn xem, tôi nghe ra được chị tôi đang đố kỵ đấy. Tôi cố ý kéo cánh tay Thẩm Thiên Lộ, thân thiết kéo anh ấy ra ngoài, Thẩm Thiên Lộ lúng túng đỏ bừng mặt.
Đang đi trên hành lang thì anh ấy rút ra khỏi tay tôi, lí nhí nói: “Tranh Tử đừng như thế này, em học cấp hai rồi đấy.”
“Ai nói thế? Em mới mười ba tuổi thôi.”
“Mười ba tuổi cũng là thiếu nữ rồi.”
“Không được, em cứ phải kéo anh đấy, ai bảo anh là anh Thiên Lộ cơ chứ.”
Tôi túm chặt cánh tay anh, kẹp vào khuỷu tay mình không chịu buông. Từ nhỏ tôi đã có tính phản nghịch, chuyện gì càng cấm tôi càng phải làm bằng được.
Thẩm Thiên Lộ vừa lúng túng, vừa căng thẳng, cánh tay được kẹp trong khuỷu tay tôi cứng ngắc như khúc gỗ. Tôi buông anh ấy ra, vịn vào lan can cầu thang, cười sốc cả hông.
Anh lúng túng một lúc, cuối cùng bật cười nói: “Mấy cô bé con các em.”
Tôi kéo anh ấy đến trường, trốn đằng sau bức tường thấp đối diện cổng trường, túm mấy cành cây thấp nhỏ che lấy gương mặt. Vừa đúng lúc buổi chiều, bình thường thầy Đổng sẽ ra khỏi trường vào tầm này. Chúng tôi canh chưa bao lâu thì người bác với vóc dáng bé tẹo kia quả thực đang chuồn ra khỏi cổng. Bác ta cúi đầu, cánh tay vung vẩy, đi cực kỳ nhanh, tôi còn lo lắng đôi bàn chân chữ bát của bác ấy vòng đi vòng lại rồi té nhào luôn ấy chứ.
Chúng tôi nhìn chằm chằm thầy Đổng không chớp mắt, từ lúc bác đi từ phía trước bức tường rồi vụt qua, tôi kéo chéo áo Thẩm Thiên Lộ, ra hiệu rằng bây giờ nên đi theo. Chúng tôi vượt qua bức tường thấp, lẳng lặng bước theo sau. Thẩm Thiên Lộ cao lớn nên đi rất nhanh, chưa đầy hai phút đã tót lên đằng trước rồi. Tôi vội vàng đuổi theo sau, nhỏ giọng nhắc nhở anh phải giữ khoảng cách, chú ý ẩn nấp. Lúc trước, tôi có đọc một quyển tiểu thuyết trinh thám của anh, học được là làm luôn, đúng là có đất dụng võ.
Thầy Đổng này càng nhìn càng không giống người tốt, bởi vì trên đường bác phải ngoái lại nhìn mấy lần, rõ ràng sợ có người bám đuôi. Nếu như quang minh chính đại đi đứng làm việc thì cớ gì bác phải thậm thụt chột dạ đến thế chứ?
Cứ đi mãi theo mãi, đi qua vài ngã tư, vòng bảy, tám lần mới đến một con ngõ nhỏ tên là Hỏa Ngõa Tự. Con ngõ nhỏ này hơi lạ, được xây đồng loạt theo kiểu gạch xanh cửa sơn đen, nhà nào nhà nấy đều đóng cửa khóa cổng, trong cánh cổng kia im lìm không một tiếng động, dường như tám trăm năm nay không có người ở. Tôi nhìn thấy thầy Đổng đi đến trước một trong số những căn nhà ở đấy, vội vội vàng vàng nhấc tay đập cổng. Cánh cổng bật mở trong giây lát, thầy Đổng lách vào, đoạn có một cái đầu ló ra từ bên trong, nhìn quanh quất bốn phía rồi mau chóng rụt lại, “két” một tiếng, cổng đóng lại như cũ.
Tôi sợ ngây người, vừa nhỏ giọng vừa thúc giục Thẩm Thiên Lộ: “Anh có thấy chưa? Bắt được rồi! Mau đi gọi người.”
Thẩm Thiên Lộ đứng yên không nhúc nhích.
“Mau lên mà!” Tôi giục anh ấy.
Anh như có điều suy nghĩ: “Em có ngửi thấy mùi gì không?”
“Mùi?” Tôi mù tịt.
“Thơm thơm, là lạ.”
Tôi khịt mũi, “Hình như là có.”
“Mùi thuốc phiện.” Anh bảo.
“Hả?”
“Khi còn nhỏ, anh có một người chú họ hút thuốc phiện, mỗi khi chú ấy hút là mùi này bay nồng nặc trong nhà. Mấy nhà trong con ngõ này chắc hẳn là quán thuốc phiện, không tin em tìm người hỏi mà xem.”
Tôi choáng váng, thẫn thờ nhìn anh, mãi lâu sau cũng không thốt ra được câu gì.
“Lúc trước nghe nói Thành Đô có không ít quán thuốc phiện bí mật, xem ra là dãy nhà này. Thầy Đổng hút thuốc phiện, sợ trường các em biết được sẽ sa thải nên mới lén la lén lút cũng là lẽ thường.”
Trời ạ, rõ ràng là một con nghiện, tôi lại xem người ta như gián điệp, phen này tôi mất hết mặt mũi rồi, lúc quay về anh chị có hỏi, tôi biết trả lời thế nào đây?
Thẩm Thiên Lộ nhìn gương mặt xám xịt của tôi, xoa tay ngẫm nghĩ nửa ngày trời mới khẽ khàng an ủi: “Em có sai đâu, ai mà chẳng có quyền nghi ngờ, không theo dõi phen này ai biết bác ta là người hay là quỷ? Nếu mà nhân dân Trung Quốc đều như Tranh Tử em, thì nước ta được cứu rồi! Lũ gián điệp Nhật Bản lấy cái gì để tình báo đây? Vào trong Thành Đô của chúng ta, đến mạng còn chẳng giữ được nữa đấy.”
Dẫu thế nào, trong cơn lúng túng được Thẩm Thiên Lộ quan tâm, thân thiết an ủi như vậy, tôi cũng thấy ấm áp và dễ chịu đi nhiều.