Vừa bắt đầu kỳ nghỉ đông, anh chị tôi cùng nhau rời khỏi nhà. Hội bán sách của chị ấy có khoảng bảy, tám người bị Lý Thắng Lợi dẫn đi, cả nhóm người ngồi xe đến Trùng Khánh, tham gia hoạt động kháng chiến do một thanh niên trong văn phòng Đảng Cộng sản Trung Quốc phía Nam tên là Tăng Gia Nham tổ chức. Còn anh Khắc Tuấn và hai người bạn cùng học khoa Tin tức được một tòa soạn ở Thành Đô bỏ tiền, lên xe tốc hành của bên bưu chính đi đến Côn Minh, chuẩn bị phỏng vấn tường tận trung tâm huấn luyện quân viễn chinh của Trung Quốc ở Côn Minh, sau đó trở về viết một loạt bản tin cho tòa soạn. Chủ biên nói với các anh, mọi tin tức bản thảo liên quan đến quân viễn chinh là điều nhân dân quan tâm và muốn xem nhất.
Anh chị tôi ra khỏi nhà cùng lúc, trong nhà bỗng chốc trở nên trống vắng biết bao, hai ngày đầu tiên, mẹ còn không quen, lúc nấu cơm cứ quên phải bỏ phần của anh chị, xới cho mọi người xong mới phát hiện thừa ra hai cái bát, mẹ thẫn thờ thở dài: “Nuôi con trai con gái làm cái gì chứ, cứng cáp rồi thì liền sải cánh bay đi.”
Cha cúi đầu và cơm, không nói năng gì.
Mẹ nhìn Thẩm Thiên Lộ, rồi lại quay đầu nhìn tôi, còn lấy đũa gõ nhẹ lên trán Tiểu Tố và em trai, dặn dò: “Mấy đứa các con mẹ phải nuôi trong nhà, đừng hòng đứa nào đòi đi.”
Tiểu Tố ngoan nhất, nhanh nhảu trả lời: “Một trăm tuổi con cũng không đi mẹ à.”
Mẹ cười rơi cả nước mắt: “Con một trăm tuổi, mẹ đã sớm thành đống xương trắng rồi.”
Em trai ngây thơ hỏi: “Mẹ thành đống xương trắng gì cơ ạ?”
Thẩm Thiên Lộ vội vã cầm đũa cốc đầu em trai, rồi gắp khoai tây thái sợi nhét vào, chặn miệng em lại.
Khi đó, em trai tôi mới sáu tuổi, đương độ nghịch ngợm phá phách. Những đứa trẻ sinh ra trong chiến tranh phải lang bạt nơi đầu đường xó chợ, thiếu ăn thiếu mặc, khi đứng với nhau, đứa này đứa kia gầy nhom vàng vọt, duy chỉ có thằng nhóc này là khác, từ nhỏ nó đã bụ bẫm, mập mạp, thậm chí đến những người hàng xóm sống ngoài Lựu Viên ai ai cũng biết em trai tôi, mỗi khi nhắc đến lại nói: “Thằng nhóc mập mạp kia kìa!”
Được mọi người yêu thích là chuyện tốt, bởi nhà đằng đông cho nắm lạc, nhà đằng tây cho miếng bánh, em trai hễ ra ngoài là không bao giờ lo đói cả. Thế nhưng có những lúc, nhiều người biết cũng là chuyện xấu, ví như lần này, em trai tôi một mình chuồn ra ngoài chơi, không biết làm sao lại chui được vào rừng dâu, nghịch ngợm cầm gạch ném tới ném lui để đập vỡ đồ. Cũng đen đủi là sống bên cạnh rừng dâu có nhà họ Mã nuôi một con gà mái đốm, xấu không thể nào xấu hơn, lúc em trai tôi chơi đến say sưa quên hết tất thảy, con gà mái đốm đang cong mông trong rừng dâu đẻ trứng nên không thể động đậy, không may làm sao lại bị thằng nhóc ném trúng gạch vào đầu, chết queo. Thế này thì đúng là chọc phải tổ ong vò vẽ rồi, bởi phụ nữ trong nhà họ Mã kia nổi tiếng khắp vùng quanh đây, không có việc gì còn gây sự khắp nơi, chứ con gà mái đẻ trứng kia chết queo thì làm sao để em trai tôi thoát thân cho được?
Thím Mã một tay xách cổ con gà rũ đầu, một tay xách tay em trai tôi, lao vào trong Lựu Viên như một cơn gió, rầm rầm đi lên tầng, vứt phịch con gà chết kia trước mặt mẹ tôi.
“Chị này, tôi không nói nhiều nữa, chị cứ nói một câu thôi, bồi thường thế nào.”
Mặc dù em trai ranh mãnh nghịch ngợm, nhưng bản tính lại thật thà, bị thím Thẩm xách tay đã sợ tè cả ra quần, ống quần bông từ mông đến chân nóng hôi hổi.
Ban đầu mẹ tôi không nhận: “Trường học cho nghỉ, trẻ con nhà nào nhà nấy chạy ra bên ngoài nghịch ngợm, thím cũng chẳng thế mà khẳng định là con trai tôi làm chứ.”
Thím Mã oang oang: “Người khác thì không nhận ra được, chứ còn cu mập nhà chị có ai không biết, có cách ba dặm đường em cũng khó mà nhận sai.”
Mẹ tôi chẳng còn lời gì để nói nữa. Có điều, bà nhấc mũi chân đá đá con gà kia rồi thì thầm: “Đứa trẻ năm, sáu tuổi chơi ném gạch, lấy đâu ra sức ném khỏe như vậy?”
Thím Mã bước lên trước, cúi người, xoay đầu con gà chết lại: “Chị gái à, nhờ chị nhìn rõ giùm em với, một gạch đập trúng đầu! Xương sọ vỡ thành đống nùi giẻ rồi! Nếu chị không tin, hay là lấy gạch đập đầu người ta thử xem nào?”
Mẹ tôi quen biết bao nhiêu người, vừa đối đáp mấy câu đã biết người phụ nữ trước mặt này ghê gớm, không thể gây chuyện được. Thôi đành vậy, bà không nói nữa, lấy tiền ra bồi thường.
Thế nhưng, hôm ấy lại là cuối tháng, nhà tôi quả thực chẳng lấy đâu ra tiền. Cò kè mặc cả mấy phen, người phụ nữ kia đồng ý lấy chiếc áo ghi-lê da cũ mẹ tôi mặc xem như là tiền bồi thường con gà.
Chiếc áo ghi-lê kia của mẹ tôi, mặt ngoài làm từ vải satin hoa, mặt trong là da cáo, dù đã cũ nhưng vẫn ấm áp vô cùng. Mùa đông năm 1937, mẹ mặc từ Nam Kinh đến đây, giữ lại cho đến tận bây giờ, tốt xấu gì cũng được xem như đồ đáng giá trong nhà. Tôi oán thán mẹ tôi dễ tính quá, chiếc áo ghi-lê da quý như vậy mà đổi lấy con gà vỡ đầu.
Mẹ giận dữ hất đầu về phía em trai: “Còn nói nữa, phải băm cái tay chỉ biết gây họa kia ra mới được!”
Em trai sợ hãi, khóc càng to hơn.
Mẹ thở dài: “Cha con là người cần thể diện, nếu mẹ không nghĩ cách cho xong chuyện, thím ấy cứ dây dưa không chịu đi, để hàng xóm tầng trên tầng dưới nhìn thấy thì còn ra thể thống gì nữa?”
Tôi cạn lời, chỉ đành đạp em trai một cái: “Khóc! Khóc! Khóc rồi gà có sống lại được không?”
Mẹ tôi quen mặc áo ghi-lê da, tự nhiên phải cởi xuống, bên ngoài áo vải chỉ còn độc một chiếc áo bông. Trời thì lạnh, mẹ lại yếu ớt, khí huyết không đủ, chẳng mấy mà bị cảm sốt hai ngày liền, rồi sau đó là ho mãn tính, ngày nào cũng vậy, cứ đặt lưng xuống ngủ là tiếng này nối tiếp tiếng kia, ho đến rũ cả người, khiến chúng tôi nghe mà bồn chồn lo lắng. Cha tôi đi đến cửa hàng thuốc bên phố Thiểm Tây mua cao bối mẫu Tứ Xuyên, rồi mua thêm cả lê và đường phèn chưng cách thủy, nhưng uống xong cũng chẳng có tác dụng gì mấy.
Mẹ ốm một cái là tôi không thể ra khỏi nhà, vì tôi phải phụ mẹ chăm lo cho cái nhà này. Theo cách nói của cha thì hiện giờ tôi đã là một nửa nữ chủ nhân trong nhà rồi. Sáng sớm mỗi ngày, tôi thay mẹ lên phố mua thức ăn, lúc về Thẩm Thiên Lộ đã nhóm lò xong và nấu một nồi cháo loãng rồi. Tôi bèn nhặt rau, rửa rau, để trong rổ cho ráo nước. Ăn sáng xong, tôi còn phải chải tóc cho Tiểu Tố, ấn em trai ngồi vào bàn dạy vài con chữ và tập tô cả một trang nét chữ. Sau đó thì phân công công việc với Tiểu Tố, quét nhà, trải giường, phủi bụi, dọn dẹp bàn làm việc của cha. Lúc mẹ tôi ngồi bên hành lang giặt quần áo, tôi bèn giành đi gánh nước, đổ nước, xách quần áo sạch vào vườn phơi nắng.
Sau bữa trưa mẹ sẽ ngủ một giấc. Mẹ sợ em trai hễ không để ý lại chạy ra ngoài nghịch ngợm nên lúc nào cũng kéo em vào chăn, ép nó ngủ trưa. Lúc này, trong nhà yên ắng vô cùng, chiếc đồng hồ để bàn kiểu cũ kêu tích tắc trên kệ tủ, em trai nằm trên giường ngáy khò khò như con mèo, Tiểu Tố bò trên bàn tô lại bức tranh thêu “Kim Lăng Thập Tam Thoa”, tôi thì trốn trong phòng, lật mở tập thơ chị Thư Nhã mượn từ chỗ Lý Thắng Lợi.
Nhờ có Lý Thắng Lợi giới thiệu, trong tay chị tôi toàn là tác phẩm của tác giả cấp tiến, có “Lời tiên đoán” của Hà Kỳ Phương, có “Mười năm thơ ca” của Biện Chi Lâm, hai người họ, cộng với Lý Quảng Điền tập hợp thành “Hán Viên Tập”. Trong ngày sinh nhật, Phạm Thư Văn tặng tôi một quyển sổ ghi chép có bìa bằng da màu xanh, tôi chẳng nỡ viết gì khác vào sổ, chỉ chép thơ thôi, ví như: “Em đứng trên cầu ngắm phong cảnh, người ngắm phong cảnh trên cầu lại ngắm em. Ánh trăng điểm tô cửa sổ phòng em, giấc mộng ai kia lại được em tô điểm26” Còn cả: “Hoa thơm nhất khi nở nơi u cốc, sương sáng nhất khi không người nhớ nhung27”, “Gió đêm cô linh, thổi qua triền núi, chạm đến ngọn dương, gảy lên tiếng đàn28”.
26. Trích từ bài thơ “Đoạn chương” của nhà thơ Biện Chi Lân, bản dịch của Nguyễn Thị Bích Hải.
27. Trích từ bài thơ “Vòng hoa” của nhà thơ Hà Kỳ Phương.
28. Trích từ bài thơ “Gió đêm” của nhà thơ Biện Chi Lâm.
Thẩm Thiên Lộ ra khỏi nhà sau mỗi bữa sáng, đến tận bữa tối mới trở về, áo quần lấm bẩn lem luốc, mặt mũi tóc tai toàn là bụi bẩn, kẽ bẩn trong ngón tay, móng tay rửa hết cả chậu nước cũng không sạch được. Vả lại, anh ấy còn ăn cực kỳ nhiều cơm, một bát gạo lứt đầy ú ụ mà anh và hai ba cái vào hết bụng, không cần ăn thức ăn luôn. Có lúc, em trai và Tiểu Tố chê cơm không ngon mà để thừa, anh chẳng nói chẳng rằng, kéo hết thảy qua trút vào bát mình.
Tôi nghe mẹ thầm thì với cha: “Anh nói xem, thằng bé Thiên Lộ này ngày nào cũng ra ngoài làm cái gì thế? Hỏi nó thì nó không nói, nóng ruột quá.”
Ngược lại cha rất thản nhiên: “Nó không nói thì em đừng hỏi. Trẻ con lớn rồi sẽ có bí mật của riêng mình.”
Thế nhưng, mẹ tôi vẫn không yên tâm, lại lén lút hỏi tôi: “Tranh Tử, con thân thiết với anh Thiên Lộ của con nhất, con nói mẹ nghe xem mấy ngày nay Thiên Lộ đang làm gì thế?”
Tôi trả lời: “Mẹ, cha con bảo mẹ đừng hỏi thì mẹ đừng hỏi nữa, đỡ lo bao nhiêu.”
Mẹ giận, đập bộp một cái lên đỉnh đầu tôi: “Đồ bội nghĩa! Nuôi con đúng là đồ bội nghĩa!”
Mẹ không biết rằng, thật ra trong lòng tôi cũng đang tò mò về bí mật của Thẩm Thiên Lộ. Anh giấu giếm người khác thì được, mà với tôi cũng giữ kín như bưng, điều này thật sự khiến tôi buồn bực. Trong nhà, hai anh em chúng tôi chẳng phải hay tâm sự với nhau nhất sao? Chẳng phải đến cả bắt gián điệp tôi cũng kéo anh đi theo đấy thôi? Dựa vào đâu mà đến lúc anh có bí mật lại vứt tôi sang một bên?
Một buổi tối nọ, mẹ, Tiểu Tố và em trai đã ngủ hết cả, cha thì ở trường tiếp đón một đoàn chuyên gia nông nghiệp nước ngoài đến Trung Quốc vẫn chưa về, tôi vừa chép hết đoạn thơ “Em đứng trên cầu ngắm phong cảnh” vào quyển sổ ghi chép bìa da xanh, cảm xúc đang dạt dào, muốn tìm người trao đổi vài câu thơ, bèn mở cửa phòng của Thẩm Thiên Lộ ở phía đối diện.
Vừa mở cửa ra, tôi lập tức sợ hãi nhảy dựng lên: Ngày đông giá rét mà Thẩm Thiên Lộ kéo áo xuống đến tận dưới eo, da thịt phần xương bả vai phải và sau gáy lộ ra hết, anh kỳ quặc quay đầu, tay trái vòng từ đằng trước qua vai phải, chật vật bôi bôi cái gì đó lên xương bả vai, miệng còn khẽ xuýt xoa.
Thấy tôi bước vào, anh hơi thảng thốt, mau chóng kéo lại áo, ngồi thẳng đơ, im lặng giương mắt nhìn, đợi tôi hỏi.
Tôi không thèm hỏi, mà bước tới kéo áo anh ấy xuống. Đập vào mắt tôi là vết sưng bầm màu xanh tím kéo dài từ bả vai cho đến lưng, lắm nơi còn đỏ tươi như bông hoa đào. Anh đang bôi loại thuốc dành cho vết thương rất gay mũi, hoặc có lẽ đó không phải mùi thuốc mà là mùi long não.
Tôi hít sâu một hơi, âm thanh sợ hãi vọt đến cổ họng, Thẩm Thiên Lộ đặt tay lên môi, mắt nhìn ra phía ngoài cửa, ra hiệu cho tôi chớ có lên tiếng. Tôi hiểu, anh không muốn mẹ biết.
“Đánh nhau à?” Tôi thì thào hỏi anh.
Anh bật cười: “Nào có, anh tìm được một công trường, chỉ phụ hồ, bốc vác vài ngày thôi mà.”
“Bốc vác mà cũng đến mức này!” Tôi suýt chút nữa hét ầm lên.
Anh xua tay, “Áo ghi-lê da của mẹ phải đền người ta rồi, mà mùa đông còn dài lắm, mẹ yếu ớt như thế không chống đỡ được đâu. Anh muốn kiếm chút tiền giúp mẹ lấy lại.”
“Thím Mã không chịu đâu, thím ấy quá hời rồi.”
“Anh có thể bỏ ra số tiền tương xứng với ba con gà. Còn không được nữa thì năm con.”
Tôi không nói thêm gì nữa, quệt một ít thuốc mỡ từ từ thoa cho anh. Lúc đó, tôi hổ thẹn vô cùng: mẹ ho mãi không ngừng, nguyên do là bởi chiếc áo ghi-lê da kia, nhưng sao mấy đứa con ruột chúng tôi không chú ý, chỉ có anh ấy nghĩ tới, hơn nữa còn để tâm đến vậy?
“Anh Thiên Lộ, ngày mai em cũng đi bốc vác với anh.”
“Thôi bỏ đi, em tưởng ai cũng bốc vác được sao? Với cái tay cái chân khẳng khiu của em, ai vớ phải thì người đấy xui xẻo.”
Tôi ngẫm nghĩ, cũng phải, về điểm này tôi vẫn tự biết người biết ta. Tôi cẩn thận kéo áo giúp anh, ngồi xuống nghiêm túc nói với anh rằng, sau khi nhìn thấy vết thương trên vai anh, tôi cực kỳ căm ghét bản thân vì lớn chậm đến vậy, tôi ước gì ngay ngày mai được tốt nghiệp cấp ba, thế thì có thể làm việc kiếm tiền, giúp cha nuôi gia đình này rồi.
“Anh tính xem nào, em tốt nghiệp xong cấp ba thì cùng lắm là mười tám tuổi? Ồ, một cô bé mười tám tuổi có thể làm gì đây?”
Tôi ngẫm nghĩ, “Em có thể làm giáo viên tiểu học.”
Anh khẽ cười: “Được lắm được lắm, làm giáo viên, giống như chú vậy, giỏi lắm đấy nhé.”
Tôi hổ thẹn: “Cha dạy đại học, còn em chỉ có thể dạy tiểu học thôi.”
“Dạy tiểu học cũng giỏi lắm đấy chứ? Có điều, em phải chú ý ăn uống, phải mập mạp, còn cả chăm chỉ học hành lấy tri thức. Cố học cho giỏi thì sau này mới có trường tuyển em chứ.”
Tôi nói với anh, bây giờ tôi đã học giỏi lắm rồi đấy nhé, lần thi trước nghỉ đông tôi đứng thứ hai trong lớp đấy.
Anh gật đầu: “Đứng thứ hai quả thực đã là tiến bộ lớn. Có điều, nếu muốn làm giáo viên tiểu học thì phải biết một trong các môn cầm kỳ thi họa mới được. Em có căn bản piano, có thời gian nhớ chăm chỉ luyện tập, tương lai mới có khả năng dạy trẻ con chứ.”
Tôi đồng ý ngay tắp lự. Vào buổi tối hôm ấy, tôi cảm thấy Thẩm Thiên Lộ hơi giống người lớn trong nhà, những lời anh nói toàn là lời của người lớn nói với trẻ con. Thế nhưng thật kỳ lạ, tại sao được anh dạy bảo mà tôi lại cảm thấy dễ chịu thế nhỉ?
Kỳ nghỉ đông đó, Thẩm Thiên Lộ làm bốc vác tổng cộng mười hai ngày, tích đủ tiền chuộc lại chiếc áo ghi-lê da cũ. Anh dẫn tôi đến nhà thím Mã bên rừng dâu. Thím Mã đó quả thực không dễ gây chuyện, biết chúng tôi đi chuyến này nhất định phải lấy được áo, giở thói ăn chặn, ra giá nghe mà giật cả mình. Hai người chúng tôi tranh luận lý lẽ, cuối cùng vẫn bỏ ra số tiền đủ để mua năm con gà mái mới đổi lại được.
Lúc Thẩm Thiên Lộ đưa áo ghi-lê da cho mẹ, mẹ bật khóc. Mẹ bảo: “Thiên Lộ, con trai ngoan của mẹ, mẹ nuôi con không phí công rồi, tận tâm chu đáo đến nhường này, mai sau cô gái nào lấy được con đúng thật là có phúc.”
Thẩm Thiên Lộ đỏ mặt tới tận mang tai, vội vàng tháo chạy, đóng chặt cửa, đến tận bữa cơm mới ló ra.
Anh tôi trở về trước khi kỳ nghỉ đông kết thúc. Trải qua một chuyến phỏng vấn đường dài, anh trầm lặng đi rất nhiều, lúc nào cũng đóng chặt cửa viết lách, ngoài tin tức anh còn viết cả nhật ký, thậm chí anh còn nói với chúng tôi rằng anh muốn viết một quyển sách, kể về toàn bộ câu chuyện của quân viễn chinh Trung Quốc. Anh bảo, phải để nhân dân cả nước biết những thanh niên lòng ôm nhiệt huyết đã hy sinh cho quốc gia như thế nào, vì sao bọn Nhật bỏ ra hai năm trời cũng không phá nổi phòng tuyến Điền Miến29.
29. Đường phòng tuyến nằm giữa phía Bắc Myanmar và phía Tây Vân Nam, nơi đây từng diễn ra một trong những trận chiến kháng Nhật lớn nhất của Trung Quốc từ 1943 đến 1945.
Lúc không viết lách, anh sẽ im lặng, dường như đang suy nghĩ về rất nhiều thứ. Anh không kể, chúng tôi cũng không dám hỏi. Anh là anh cả, sẽ luôn có uy nghiêm của người anh cả.
Đến tận lúc vào học, chị tôi cũng không trở về. Đầu tiên, chúng tôi tưởng rằng đường sá không tiện, có thể chị đã nán lại đâu đó rồi. Dù sao cũng không chỉ một mình chị đi, trong nhà cũng không lo mấy. Một tuần sau khi vào học, chúng tôi nhận được thư chị gửi đến từ Thành Đô mới như sét đánh giữa trời quang: Chị đã theo Lý Thắng Lợi đi Diên An rồi. Trong thư chị nói, lần này có tổng cộng hơn một trăm người đi, đều là những thanh niên trạc tuổi, họ đi Diên An học đại học chống Nhật. Họ phải đi ngang qua tuyến đường phong tỏa của quân Nhật, mà không chỉ là một đường thôi đâu, sẽ có những hiểm nguy nhất định, nhưng không sao, Văn phòng Đảng Cộng sản Trung Quốc phía Nam đã tìm người dẫn đường, sắp xếp tiếp ứng cho họ, tất cả đều thuận lợi. Chị viết: Cha mẹ thân yêu của con, xin hãy vui cho con, chúc phúc cho con, bởi vì con đang chạy về phía tự do và ánh sáng của nhân loại!
Mẹ cầm bức thư của chị, run rẩy như chiếc lá trước gió, “Khó khăn lắm mới chạy được từ Nam Kinh đến đây, nó lại tự vòng về. Phải đi qua tuyến phong tỏa của giặc Nhật đấy, mà không chỉ phải qua một tuyến, đứa trẻ này đang nghĩ gì vậy? Nó còn không bàn bạc với gia đình nữa?”
Cha buồn bã, cả ngày trời không nói câu gì, sau đó trong bữa tối, ông cầm đũa chỉ từng người chúng tôi: “Mấy đứa các con, có đứa đã lớn, có đứa sắp lớn, tương lai sẽ bước đi trên con đường của chính mình, lựa chọn cuộc sống của riêng mình, cha mẹ tôn trọng tất cả lựa chọn của các con. Nhưng chỉ có một điều, cho dù đi đâu, làm gì, nhất định phải để cha mẹ biết đầu tiên. Các con là con của cha mẹ trước, rồi mới là người dân của đất nước.”
Nói xong câu này, cha bưng bát cơm lên: “Được rồi, ăn cơm.”