Năm 1944, bảy năm sau kháng chiến, đất nước và quân đội chúng tôi đã kiệt quệ tới cực điểm, tình hình trên chiến trường nguy hiểm vô cùng. Đầu tiên, quân Nhật thua trong chiến dịch tại Pal, Ấn Độ, chúng thẹn quá hóa giận, lập tức vạch ra một kế hoạch tác chiến điên cuồng, bằng mọi giá đả thông tuyến đường Điền Miến, gấp rút tiếp viện chiến trường Ấn Miến. Sau đó, quân đội quốc gia ở Hoa Trung, Hoa Nam lần lượt tháo chạy, Lạc Dương thất thủ, Hành Dương thất thủ, Quý Lâm, Liễu Châu, Nam Ninh cũng lần lượt thất thủ. Bọn quỷ Nhật đánh chém giết chóc đến hai mắt đỏ ngầu, bắt đầu mạnh mẽ tiến vào Quý Châu, đánh hạ thị trấn trọng yếu Độc Sơn, Kiềm Nam, uy hiếp trực tiếp đến Trùng Khánh – thủ đô thứ hai.
Cả nước, ai ai cũng kinh hãi.
Những thanh niên trên bãi bồi Hoa Tây không ngồi yên thêm được nữa, trong các trường đại học, những sinh viên trước nay vẫn luôn im lìm học tập giờ đây ào ào bàn chuyện nhập ngũ đánh giặc, họ hô lên khẩu hiệu: “Một tấc non sông một tấc máu, mười vạn thanh niên mười vạn binh.”
Giáo sư Từ của khoa Vật lý và giáo sư Mai của khoa Chăn nuôi đi lên bàn thế sự với cha tôi. Giáo sư Từ cho rằng phải ngăn chặn sự cuồng nhiệt của sinh viên, bởi vì nhập ngũ lúc này không khác gì đâm đầu vào chỗ chết. “Mười vạn thanh niên mười vạn binh, mười vạn xương cốt, mười vạn linh hồn đấy chứ! Không thể trơ mắt nhìn những sinh viên này trở thành bia đỡ đạn được, nếu không chúng ta vượt qua trăm đắng nghìn cay chuyển trường để làm gì? Sinh viên học một bồ tri thức để làm gì? Dù cho tương lai chúng ta chiến thắng, nhưng không có những thanh niên này thì huyết mạch dân tộc sẽ đứt đoạn, rồi cả phát triển văn minh cũng bị thụt lùi mất thôi.”
Tay phải giáo sư Mai kẹp một điếu thuốc lạc đà, miệt mài hút, hút một lúc mới nói, là một giáo sư, bác ấy cũng không nỡ đưa sinh viên của mình đi, thế nhưng không đi không được, đã đánh trận đến tận bây giờ rồi, có mất nước hay không chính là nằm ở thời khắc này đây. “Tổ chim bị phá, há có quả trứng nào nguyên vẹn? Người xưa cũng đã nhận thức được điều này, người nay sao có thể sống cho qua ngày đoạn tháng được? Phải thắng trước, sau đó mới nói đến chuyện xây dựng và phát triển, không thể đảo lộn trình tự được. Nếu tôi đây mới hai mươi tuổi thì chắc chắn cũng báo danh xông pha chiến trường.”
Cha tôi yên lặng nghe họ nói, không chêm vào một câu nào. Nguyên nhân ông không nói là đợi quyết định của anh Khắc Tuấn. Giờ nghĩ lại, tâm trạng của cha lúc đấy hẳn cũng giống như đang đợi phán quyết của tòa án vậy: Tử hình hay tù chung thân? Nếu anh tôi không báo danh, có lẽ cha sẽ thất vọng, phẫn nộ và tiếc nuối vì anh không đứng lên đấu tranh; còn nếu anh báo danh rồi, vậy sẽ là cuộc sinh ly tử biệt, khả năng anh chiến thắng trở về nhà là cực kỳ nhỏ bé.
Đó quả thật là những ngày nặng nề vô tận trong gia đình chúng tôi, đến cả đứa em trai nghịch ngợm cũng nhận ra sắc mặt của người lớn, cả ngày bám lấy mẹ, ngoan ngoãn như một con mèo.
Anh cứ bận rộn bên ngoài mãi, mấy ngày liền không về nhà. Mẹ muốn để tôi đến trường tìm anh nhưng cha ngăn lại. Ông nói, anh đang giúp ban chấp hành chiêu mộ thanh niên nhập ngũ, nơi ấy nhiều việc, loạn lạc, đăng ký điền tên, làm báo tuyên truyền, mọi thứ đều tốn thời gian và sức lực, đừng đến quấy rầy anh ấy thêm.
“Vậy anh nói, thằng cả nó...” Mẹ lo lắng nhìn cha, không dám thốt lên hai từ “nhập ngũ”.
Cha trả lời mẹ bằng bốn chữ: “Chuẩn bị kỹ càng.”
Mẹ quay mặt đi, khóc, bà biết tình hình, cũng biết tính tình của cha và anh, bà khóc chẳng qua là để giải tỏa nỗi bi thương sớm mà thôi.
Rốt cuộc anh tôi cũng sắp xếp thời gian về nhà một chuyến, nói với chúng tôi rằng anh sẽ báo danh tham gia quân viễn chinh. Anh cười nói, người như anh, sau khi nhập ngũ có ba tác dụng, vừa là phiên dịch cho quân đội, còn có thể làm phóng viên theo quân đội, lúc cần thì bắn súng, đánh giáp lá cà đều không vấn đề gì. Anh cười hì hì, xắn tay áo cho chúng tôi xem cơ bắp rắn chắc trên cánh tay mình: “Nhìn kiện tướng thể thao con đi, anh hùng cuối cùng cũng có đất dụng võ rồi.”
Anh tôi vẫn luôn ngưỡng mộ đội quân viễn chinh danh tiếng lẫy lừng, giờ đây, cuối cùng cũng trở thành thành viên trong đó rồi. Lần anh đến Côn Minh phỏng vấn dịp nghỉ đông ấy còn là một lần diễn thử trong âm thầm, một tiếng sáo lảnh lót trước khi mở màn.
Anh mặc quân trang lên người, lưng đeo ba lô, lúc anh rời khỏi Lựu Viên, hàng xóm tầng trên tầng dưới đều đi ra, tất cả mọi người trong viện lặng lẽ đứng thành hai hàng, thẳng lưng ưỡn ngực, ánh mắt tiễn đưa anh tôi sải bước ra cổng. Chỉ có cha mẹ không ở đây, họ rất im lặng, vai kề vai đứng trước lan can tầng hai, cha nắm chặt tay mẹ, không để bà run, không để bà khóc.
Sau khi nhập ngũ, anh tôi lập tức được phái đến Ấn Độ huấn luyện. Tháng Bảy cùng năm, ngày mùng bảy tháng Bảy kỷ niệm bảy năm kháng chiến, dưới sự giúp đỡ của quân đồng minh, quân đội Trung Quốc đóng tại Ấn Độ phát động chiến dịch tấn công Myitkyina, Miến Điện. Đầu tháng Tám, anh tôi hy sinh tại tiền tuyến Myitkyina.
Thật ra chúng tôi đã đoán trước được kết cục này. Từ ngày đầu tiên anh nhập ngũ, cha mẹ đã chuẩn bị sẵn tinh thần nhận tin dữ. Họ đợi mỗi ngày, mỗi tuần, mỗi tháng. Từng ngày trôi qua, gia đình chúng tôi cùng nhau xóa đi hai mươi tư tiếng đồng hồ. Thêm một ngày được xóa bỏ thì thêm một ngày gần chiến thắng, niềm hy vọng và sự may mắn nơi đáy lòng lại nhiều thêm một phần.
Thế nhưng, điều phải đến vẫn sẽ đến, anh Khắc Tuấn của tôi, người anh mới mười chín tuổi đã là anh linh yên nghỉ nơi tha hương đất khách.
Cũng trong tháng Tám ấy, Thẩm Thiên Lộ trúng tuyển vào Trường Sĩ quan Không quân Côn Minh. Nguyện vọng từ trước đến giờ của anh ấy là học ngành Công nghiệp và Hóa chất của trường Đại học Kim Lăng, đi trên con đường công thương nghiệp cứu quốc, bắt đầu từ bao giờ anh ấy lại đột nhiên muốn học trường quân sự đây? Anh ấy chưa từng nói. Sau này tôi nghĩ lại, có lẽ từ lúc Mã Khắc rơi xuống bướu lạc đà, để lại cho anh một mô hình máy bay cá mập. Chiếc mô hình được anh lấy một sợi dây gai treo trên đỉnh màn đó có lẽ đã vô số lần bước vào giấc mơ của anh, trở thành một phần trong máu thịt anh.
Lúc nghe tin chị Thư Nhã rời nhà đi Diên An, cha bình tĩnh ung dung. Anh Khắc Tuấn báo danh nhập ngũ, cha cho rằng đó là điều đương nhiên. Chỉ có duy nhất chuyện Thẩm Thiên Lộ thi vào trường hàng không là tựa như cuối cùng đã bắn cho ông một viên đạn, khiến cho phòng tuyến tâm lý của ông sụp đổ. Tôi nhớ gương mặt đau khổ, ánh mắt già nua, lưng còng lại, đôi tay xoắn chặt vào nhau của ông, ông đi lòng vòng trong nhà, cứ cách vài phút lại ngẩng đầu hỏi Thẩm Thiên Lộ: “Bàn bạc lại được không cháu?”, “Có thể nghĩ lại không?”
Thẩm Thiên Lộ cúi đầu đứng ở cửa, không dám nhìn cha tôi, anh không nói được, cũng không nói không, dù chết cũng không mở miệng. Vì thế mà cha tôi hiểu rằng tất cả mọi chuyện là ván đã đóng thuyền. Ông hiểu tính tình của Thẩm Thiên Lộ, nên từ lúc ấy, ông không hề khuyên ngăn một câu nào về chuyện này nữa, nhưng dặn dò mẹ tôi, tiền trong nhà lấy ra được bao nhiêu cứ lấy, khoảng thời gian trước khi Thẩm Thiên Lộ xuất phát, trên bàn ăn trong gia đình tôi ngày nào cũng có thịt, những tảng thịt thật to, còn có cả món trứng gà ủ rượu gạo mà anh thích ăn nhất, mỗi ngày một bát, chỉ một mình Thiên Lộ được ăn.
Thẩm Thiên Lộ không dám không ăn, dù rằng bát trứng mẹ làm cho riêng mình anh đó, anh ăn cực kỳ khổ sở, khó mà nuốt trôi. Anh biết việc mình thi vào trường hàng không đã khiến cha tôi đau đớn như có hàng nghìn mũi tên xuyên vào tim, vậy nên dù cho thế nào, anh cũng không xứng với tình yêu thương thầm lặng này.
Còn mẹ, tính ra cũng mới chỉ bốn mươi tuổi, vậy mà mấy tháng nay, tóc trên đỉnh đầu lại mọc ra vài nhúm trăng trắng cưng cứng, cứ chĩa lên trời, thẳng như cây kim, mỗi ngày lúc mẹ giặt giũ nấu cơm, lom khom làm việc, nhúm tóc trắng như mào gà trên đỉnh đầu mẹ làm mắt chúng tôi gai gai, cay sè.
Trước khi nhập học, Thẩm Thiên Lộ bất ngờ gọi tôi ra ngoài tản bộ với anh. Cả đoạn đường anh đút tay trong túi lặng lẽ bước đi, tôi chẳng biết gì, lẽo đẽo theo sau anh, len lén nhìn gương mặt nghiêm túc của anh. Góc mặt của anh khác hoàn toàn với anh Khắc Tuấn, anh tôi có sống mũi cao, đôi môi mỏng, ánh mắt lúc nào cũng nhìn thẳng hướng lên trên, dù trong hoàn cảnh nào cũng mang dáng vẻ tự do tự tại, vì thế các cô gái cực kỳ thích anh. Còn ngũ quan của Thẩm Thiên Lộ lại khá đậm, thật thà chất phác, nhìn qua hơi ngốc nghếch, tiếp xúc lâu rồi mới thấy thật ra anh rất chuyên tâm và tinh tế, chẳng trách mẹ luôn nhìn anh bằng con mắt khác.
Chúng tôi đi đến rừng cây bên bờ sông. Thẩm Thiên lộ đứng một lúc, nhìn vào rừng cây như có điều suy nghĩ. Tôi nhớ lại lần đầu tiên tôi gặp anh là khi đang trèo lên cây dâu già trong khu rừng này, tay còn cầm một vốc dâu tím thẫm. Sau đó, chúng tôi tiếp tục men theo con đường nhỏ nơi làng quê đi đến bãi tha ma, đi qua một giáo đường của đạo Cơ Đốc, khi xưa từng bị máy bay giặc Nhật ném bom nổ một góc, giờ đã được tu sửa lại một cách sơ sài. Năm tôi chín tuổi, Thẩm Thiên Lộ đi cùng tôi đến phòng luyện đàn trường Đại học Nữ sinh Kim Lăng, cành của cái cây mọc bên bãi tha ma móc vào tóc, dọa tôi sợ điếng người, tôi muốn nắm tay anh, vậy mà anh lại đưa cho tôi cái đòn gánh.
Anh vẫn không nói gì, còn tôi thì vẫn không dám mở miệng hỏi anh.
Đến tận khi chúng tôi đi đến trường học, vòng một vòng quanh bức tường, Thẩm Thiên Lộ mới đột nhiên hỏi tôi: “Sau khai giảng là em vào lớp chín nhỉ?”
Tôi gật đầu.
Anh cũng gật đầu theo.
Rồi anh nói: “Sau khi anh đi, em sẽ là đứa con lớn nhất trong nhà, nghĩ mãi cũng không thấy điều này là thật.” Khóe miệng anh cong lên thành nụ cười, “Chẳng ai muốn lớn, nhưng lại không thể không lớn. Mẹ và chú đã già rồi, sau này gia đình cậy nhờ vào em rồi.”
Tôi vội vàng kháng nghị: “Không thể thế được! Anh và chị đều phải trở về!”
Anh đút tay vào túi quần, mắt nhìn lên bầu trời: “Ừ, nếu anh có thể lái máy bay bay lên trời, anh sẽ lái về bãi bồi Hoa Tây xem mọi người đang làm gì. Em cẩn thận đấy, anh ở trên trời nhìn thấy hết, nếu phát hiện em làm không tốt, anh sẽ ném một quả bóng cao su từ trên máy bay xuống đập vỡ đầu em.”
Tôi nhếch miệng muốn cười thành tiếng, thế nhưng không biết vì sao không tài nào cười nổi.
Tôi hỏi anh: “Vậy thì, đợi đến lúc anh về nhà, anh muốn nhìn thấy mọi người đang làm gì?”
Anh cúi đầu nghiêm túc ngẫm nghĩ thật lâu, “Tranh Tử, đợi đến khi anh về nhà, em đàn cho anh nghe nhé, khúc nhạc em nói đấy, ong dại đang bay…”
“Là ‘Vũ điệu ong dại’!” Tôi reo lên.
Cuối cùng anh cũng bật cười: “Ha ha, đúng vậy, ‘Vũ điệu ong dại’. Em thấy không, cái tên hay biết mấy, hay đến nỗi tựa như nhìn thấy ong dại đang bay trước mắt, lần sau anh về nhất định phải nghe em đàn bài này.”
“Được. Sau khi anh đi, em sẽ luyện tập khúc ca này hằng ngày, đợi khi anh về nhà sẽ đàn cho anh nghe. Anh nói lời phải giữ lời đấy, nhất định, nhất định phải trở về!”