2. Ông vừa năn nỉ bà uống xong ly sữa rồi đi tắm. Bà hớp ngụm nước tráng miệng. Cơn ho lại tiếp tục hoành hành. Bà ôm ngực cố chịu và cứ để nó tự do, vì đây là thời điểm thích hợp. Nếu không để nó thoải mái thì lát nữa nó lại làm phiền ông già. Bà thấy nó cũng rất biết điều chứ không đến nỗi nào. Bởi nó chỉ quấy nhiễu bà từ trưa đến chiều rồi đêm lại để yên cho bà nghỉ ngơi. Có như vậy thì ông già nhà bà mới được ngon giấc. Nếu không thì lấy sức đâu để ông gánh vác cái gia đình này thay cho cả phần bà, còn công việc của sóc, của đoàn thể nữa.
Mùi cá nướng thơm lựng đang kích thích khứu giác và vị giác của bà, khiến bà thèm ăn đến độ nước bọt cứ liên tục trào ra mà không kịp nuốt. Nó giống hệt như cái cơn thèm hồi còn nhỏ nhìn đám bạn ăn trái me rừng chấm muối. Ấy vậy mà bà có dám ăn đâu, vì bộ máy tiêu hóa của bà không cho phép. Bà nghe tiếng va chạm của chén đũa, rồi tiếng bước chân của ông. Bà van nài cái cơn ho lì lợm hãy buông tha cho bà. Không biết nó thấy thương hại bà hay nó sợ ông mà chạy trốn biệt tăm. Vậy là bà có cơ hội ngồi thảnh thơi ngắm ông già gỡ từng miếng cá chấm muối ớt, rồi nhâm nhi từng hớp rượu nhỏ một cách chậm rãi. Ông đưa mắt nhìn bà, nhắc nhở:
- Bà uống thuốc đi.
- Ừ! Ông cứ ăn đi.
Bà ngán ngẩm rẽ mớ thuốc ra rồi từ từ uống từng viên một cho đến hết viên cuối cùng. Bà tự chiêm ngưỡng từng cử chỉ quen thuộc ở ông, tự đọc những cảm xúc đang diễn ra trong ông. Vẫn cái làn da rám nắng săn chắc trong bộ quân phục màu xanh bạc thếch. Vẫn giữ nét cương nghị đáng nể không hề thay đổi. Vẫn cái cử chỉ ăn uống điềm đạm. Vẫn cái vẻ suy tư hiện rõ mồn một theo từng đường nét dao động trên vầng trán. Ông nhắm nháp từng miếng cá nướng chấm muối ớt như thưởng thức vị mằn mặn, ngòn ngọt, cay cay, nồng nồng từ hương vị của núi rừng. Ông nhâm nhi từng tí rượu như đang nhấm nháp cái vị đắng đót của cuộc đời. Cái vị đắng ấy đã vẽ nên những đường mòn li ti ngày một dày, một đậm hơn ở sau đuôi mắt; nó cũng góp phần phủ thêm lớp tuyết mờ lên mái đầu dãi dầu mưa nắng của ông. Và ông chắc hẳn đang nhớ một kỷ niệm nào đó chợt quay về từ quá khứ.
Ông nhìn thấy cả con trai và con rể vừa đến lại len lén ra về, vì chúng biết ngay lúc này nên để ông yên tịnh. Ông lại nhắc nhở bà:
- Khi cơn ho chưa kịp trở lại thì bà tranh thủ ngủ đi.
Bà cũng không muốn để ông bận tâm vì mình nên lặng lẽ đứng lên, nhưng vừa đi vừa nói với lại:
- Ông cũng đừng nên thức khuya quá.
Ông gật đầu rồi nhìn theo đầy vẻ lo âu. Cái dáng người gầy nhom ấy đã khiến cho bộ quần áo hoa sẫm màu cứ rộng thùng thình, phất phơ di chuyển vào phòng. Làn tóc dày đen mượt ngày xưa, giờ đổi bằng một lớp sương mỏng mảnh ôm gọn mái đầu. Cứ thế, mãi cho đến khi căn buồng đã che khuất bước chân cuối cùng của bà.
Màn đêm vẫn mờ ảo trong ánh đèn đường hắt vào đến tận mái hiên. Tiếng xe cộ thưa thớt dần. Giấc ngủ yên bình đã hiện hữu trong mọi nhà. Chỉ còn lại mỗi mình ông trong tĩnh lặng. Và, ông tự buông mình rơi thõm xuống cái thung lũng vô tư của những đứa trẻ ngây khờ thời quá vãng. Cái thời mà thằng bé con Điểu Lên gan lì, luôn là đứa đầu sỏ cho các trò nghịch phá của lũ trẻ trong làng. Cái thời mà cả đám trẻ mặt mũi lấm lem, ngồi lăn lóc trong nhà dài để nghe Dâu1 kể đủ thứ chuyện. Những câu chuyện lạ lẫm đến nỗi đứa nào đứa nấy cứ im thin thít mà trố mắt ngạc nhiên. Đặc biệt là sự khởi nguồn của một cái tên: Từ “Đam Bor” rồi đến “Bu Đ’bor” và cuối cùng là “Bom Bo”.
Chuyện kể rằng: “Ngày xửa ngày xưa, xưa thật là xưa. Trong số những dân tộc anh em của người dân Việt Nam ta, có một tộc người gọi là người S’tiêng. Cụ tổ của người S’tiêng trong những ngày đầu lập nghiệp, đã dắt díu con cháu băng rừng, lội suối để tìm một địa danh thích hợp cho cuộc sống mưu sinh của dòng tộc. Họ đi từ Bắc chí Nam, từ miền xuôi lên miền ngược, đi mãi mà chưa tìm được nơi nào ưng ý cả. Trên đường rong ruổi, thỉnh thoảng họ dừng lại để phát rẫy trồng trọt và săn bắt thú rừng. Họ tạm dừng chân cho đến ngày thu hoạch. Khi tất cả các gùi, bu đều đựng đầy lương thực thì họ lại tiếp tục lên đường. Cứ như thế từ ngày này qua ngày khác, năm này qua năm khác. Dòng tộc họ mỗi ngày một sinh sôi nảy nở, nên ngày càng đông đúc hơn. Một số con cháu có lẽ đã thích nghi được với môi trường sống, quyết định dừng lại lập sóc ở một vùng đất trên đường mà dòng tộc đã đi qua. Số đông còn lại vẫn tiếp tục cuộc hành trình đến một vùng đồi núi đất đỏ bazan, khí hậu ôn hòa. Cụ tổ quyết định dừng chân lập nghiệp trước sự đồng lòng của cả dòng tộc. Những ngôi nhà dài lần lượt mọc lên. Những bông lúa trĩu hạt, vàng ươm đã bắt đầu xôn xao dưới bàn tay các cô sơn nữ; tiếng chày đôi, chày ba thì thụp rộn ràng; những quả bắp ngô no tròn đã nổ lốp bốp trên bếp lửa hồng; mùi thịt nướng, rượu cần cứ quyện vào nhau say khướt… Mùa khô đến, khi những cánh diều của lũ trẻ chạy đuổi nhau mỗi ngày một nhiều hơn, thì cũng là lúc những con suối nhỏ gần làng chỉ còn xâm xấp nước. Dân làng phải tìm đến những Khe suối sâu trong rừng để lấy nước uống một cách khó khăn, vất vả. Một hôm, cụ tổ tập hợp đàn ông và trai tráng trong làng lại để bàn bạc. Ngay trong đêm ấy, họ chuẩn bị sẵn một số lương thực và dụng cụ đi rừng cần thiết. Sáng sớm hôm sau họ bắt đầu lên đường và mang theo cả cái điều bí mật mà phụ nữ và trẻ con không ai biết. Họ hợp sức cùng nhau chặt những ống lồ ô rồi chắp nối lại thành một cái máng để dẫn nước về làng. Mấy ngày sau họ trở về cùng một phát minh mới đột ngột ra đời. Phụ nữ và trẻ em vui mừng trong ngơ ngác, khi tự tay cầm trái bầu hoặc ống tre hứng đầy dòng nước mát lành. Dòng nước được dẫn từ khe suối chuyền theo Đam Bor về làng. Trong buổi ăn mừng náo nhiệt, cụ tổ tuyên bố: “Để ghi lại cái dấu ấn cho sự phát minh thông tuệ của dòng tộc từ thuở sơ khai này, chúng ta gọi tên sóc là Đam Bor”. Đam Bor nghĩa là cái máng nước. Sau khi Ngô Đình Diệm cầm quyền, thì Đam Bor bỗng dưng trở thành Bu-Đ’bor một cách hết sức vô lý. Đến khi cách mạng về, vì cái sóc này chịu quá nhiều bom đạn nên đã đổi thành sóc Bom Bo”.
Cũng bắt đầu từ đó, Bom Bo mỗi ngày một đi sâu vào tâm thức của lũ trẻ như một phần máu thịt không thể thiếu trong cơ thể con người.
1. Dâu: Cách gọi ông nội hoặc ông ngoại của người S’tiêng.