3. Năm, sáu đứa trẻ quây quanh một chiếc lá đựng nhúm muối hột. Điểu Lên nhón gót cố gỡ cái gùi trên vách bồ lúa xuống. Cả nhóm ngẩng đầu hồi hộp chờ đợi. Cái gùi nhỏ cứ đung đưa, đung đưa rồi rớt phịch xuống sàn. Những trái me rừng tràn ra rồi nhảy tưng tưng, hất tung cả nhúm muối. Mấy cái lưng trần bắt đầu lom khom vừa nhặt, vừa phủi, vừa ăn. Thỉnh thoảng, chúng tiện tay nhặt bỏ vào cái gùi được Điểu Lên kéo qua. Chúng đâu biết rằng có một cặp mắt to, tròn, đen láy đang chằm chặp nhìn chúng với vẻ thèm thuồng. Nó nhìn thấy mấy bàn tay đưa lên miệng, khi thì cắn một miếng me, khi thì cắn một hột muối rồi nhai, rồi nuốt. Nó nghe cứ rùm rụm bên tai. Nó cũng nuốt, nhưng mà là nuốt nước bọt. Nó nuốt liên tục, vậy mà không kịp nên nước bọt cứ chảy tràn ra khóe miệng.
- Bơ Rơi! Vô đây đi.
Nó giật bắn người run rẩy như kẻ trộm vừa bị bắt quả tang. Nó lấm lét bước theo cái nắm tay lôi xềnh xệch của Điểu Lên, trước những cặp mắt tinh nghịch của mấy đứa lớn.
- Bơ Rơi, ăn đi.
Nó hoàn hồn khi đã ngồi lọt thỏm ở chính giữa và nhận ra Thị Nết ở cạnh nhà nó cũng đang có mặt. Nó ăn ngấu nghiến một cách ngon lành. Đây quả là món ăn mà nó cảm thấy ngon như chưa có món nào ngon bằng. Cái vị chua chua, ngọt ngọt, giòn giòn của me, mằn mặn của muối sao mà khéo dụ dỗ cái con bé bốn tuổi còn cởi trần trùng trục như nó vậy chứ. Nó cứ nhai nhồm nhoàm rồi nuốt, rồi nhăn mặt, nheo mắt mà nước bọt vẫn còn tuôn ra đến nỗi nó ho sặc sụa vì nuốt không kịp.
- Ăn từ từ thôi, Bơ Rơi.
Nó cảm thấy gần gũi hơn trước những nụ cười thân thiện đang nhìn nó. Những ánh nhìn chứa chan tình bạn ấy, như dẫn đường cho từng bước chân của nó mon men đến ngôi nhà này. Để rồi, mỗi ngày được cùng nhau lắng nghe những câu chuyện hấp dẫn của núi rừng.
***
- Mưa! Mưa to quá!
Những chiếc khố, xà rông tuột khỏi thân người nằm lăn lóc trên sàn nhà. Lũ trẻ reo hò nhảy cẫng lên dưới màn nước trời đang chuyển động. Từng quả bom sình từ tay lũ con trai bắt đầu tung tóe bắn vào nhau xoèn xoẹt. Mấy đứa con gái thì hò nhau be bờ, vét ao, bắt bong bóng. Những chiếc thuyền lá cứ dập dềnh trên sân. Tiếng cười đùa át cả tiếng gầm gừ của sấm sét. Từng đụn đất đã bét nhòe dưới những bàn chân thơ dại.
- Dâu về! - Lũ trẻ reo mừng rồi chen nhau chạy ù xuống suối.
Ông già hạ cái gùi trên vai xuống. Cắm cái xà gạc lên vách. Chiếc khố ôm gọn phần bụng dưới và nép sát vào chính giữa hai đùi, phơi cặp mông đen bóng, chắc nịch khuất dần sau cánh cửa.
Chỉ trong phút chốc, mấy đứa trẻ đã tươm tất và ngồi quây quần trên cái sạp dưới bồ lúa. Chiếc gùi của ông được lũ nhỏ khám phá và lôi ra hàng loạt sự hấp dẫn từ những quả rừng. Dủ dẻ vàng mơ xen lẫn với màu đỏ hồng của chùm chày, trái cầy ươm ươm như màu cốc chín, những trái gùi tròn như quả cam vàng ửng, trái giang xanh non dài cong như đậu đũa... Chúng say sưa với những quả rừng ông mang về. Ông thì say sưa ngắm nhìn cái vẻ thích thú của chúng. Ông cúi xuống đẩy thêm mớ củi vào đống ung. Đôi hoa tai ngà voi như hai chiếc vòng tay con nít, kéo trễ hai dái tai bết vào hai bên gò má rám nắng, rồi đung đưa qua lại theo từng cử động của ông. Ông búi lại lọn tóc vừa khô gọn ghẽ sau gáy. Ông kéo một cây củi nhỏ, châm đầu lửa đỏ vào điếu thuốc lá vừa gắn lên môi. Ông rít một hơi dài sảng khoái rồi thả ra một chùm khói trắng đục cứ lan dần, lan dần. Màu vàng thau xen lẫn màu ánh kim phản chiếu lấp lánh từ mấy chiếc vòng đồng, vòng bạc và những chuỗi cườm sặc sỡ đủ màu trên cổ ông. Ánh nhìn tinh nhạy dưới cặp lông mày đậm oai vệ cứ long lanh như vị thần ánh sáng. Rồi giọng kể trầm ấm cất lên, kéo những đôi mắt ngây thơ đang đợi chờ về phía khuôn miệng thu hút của ông.
Bây giờ, dâu sẽ kể về sự tích cây lúa:
“Ngày xưa, xưa lắm. Cái ngày con người chúng ta chỉ biết ăn rau rừng, quả dại mà sống. Cuộc sống cứ phiêu bạt theo sự sinh trưởng ngẫu nhiên của rau, củ, quả trên từng vùng rừng núi tùy thuộc vào khí hậu. Năm ấy thời tiết không thuận hòa, thức ăn ít hẳn nên hầu như mọi người đều bị đói. Nhiều người phải đi thật xa để tìm thức ăn. Có hai vợ chồng trẻ nọ cứ đi mãi đến chân mỏi, bụng đói cồn cào mà vẫn chưa tìm được chỗ nào có cái ăn để sống. Rồi một chiều tối nọ, họ thấy một đàn chim bay sà xuống giữa vùng cỏ nâu vàng. Họ nghĩ “Chim ăn được, chắc người cũng ăn được”. Họ quyết định dừng lại và dựng một túp lều con tạm nghỉ chân ở đó. Hằng ngày vợ lên núi kiếm rau và tìm quả dại, còn chồng đặt bẫy, săn bắt chim thú. Một hôm, người chồng mang về đưa cho vợ ba quả trứng nhỏ mà anh đã nhặt trong tổ chim trên đám cỏ nâu vàng ấy. Người vợ không đành lòng, nên lẻn chồng mang trứng trả lại tổ cho chim mẹ. Đêm đến, người vợ mơ màng thấy chim mẹ bảo rằng “Thần Lúa sai chim mang ba hạt giống màu vàng đến tặng và chỉ cho nàng cách gieo trồng”. Nàng giật mình tỉnh giấc và thấy ba hạt giống ấy vẫn nằm gọn trong tay mình. Nàng kể lại sự tình cho chồng nghe. Sáng hôm sau, hai vợ chồng cùng xới một vũng đất nhỏ để gieo hạt rồi chăm sóc mỗi ngày. Cây giống ngày càng xanh tốt và càng giống đám cỏ nâu vàng kia. Khi thu hoạch, họ thấy trồng một hạt lại thu được cả ống tre hạt. Bóc bỏ phần vỏ vàng đi, lấy hạt trắng bên trong nấu lên ăn. Ôi! Đúng là một món ăn bùi bùi, thơm thơm, vừa no lâu lại vừa khỏe người. Năm sau, họ lại trồng nhiều hơn năm trước. Rồi họ đem hạt giống và kinh nghiệm truyền lại cho muôn người, kể cả chuyện ba quả trứng cùng lời khuyên: “Khi ta tích thiện thì mầm thiện sẽ sinh sôi”. Hạt màu vàng đó chính là hạt lúa bây giờ. Kể từ khi có giống lúa ấy, cuộc sống loài người ấm no, sung túc hơn. Họ sống tập trung thành sóc chứ không phải phiêu bạt nay đây mai đó nữa. Hằng năm, sau khi thu hoạch lúa xong, dân làng lại làm lễ cúng lúa mới để tạ ơn Thần Lúa, cầu cho mùa sau được nhiều bông, nhiều lúa”…
***
- Cây lúa của Bom Bo cũng có từ đó hả dâu?
- Họ cũng cúng mừng lúa mới giống như Bom Bo mình hả dâu?
Lũ nhỏ hào hứng hỏi dồn. Ông khều mấy trái bắp ngô và mớ khoai vừa chín trong đống ung ra rồi trả lời:
- Ừ, đúng vậy. - Ông hớp ngụm nước. Nhìn lũ trẻ vừa ăn vừa ngước mắt chờ đợi, ông tiếp tục:
- Truyền thuyết kể rằng:
“Ngày xưa ấy, có chàng mồ côi nghèo khổ bị bọn nhà giàu bắt đem bán đi thật xa. Nhớ quê hương, nhớ sóc, nhớ đồng bào mình, chàng tìm cách trốn về. Ký ức về tiếng thác nước chảy nơi quê nhà đã giúp chàng tìm về được chính nơi mình đã từng chôn nhau, cắt rốn. Chuyện chàng trai mồ côi nghèo trốn thoát được lan xa đến tai nhiều người. Rồi một trăm người mồ côi khác cũng trốn chạy. Chỉ vì tin lời lừa bịp của lão nhà giàu độc ác, đã khiến một trăm người mồ côi này chết hết. Chín mươi chín xác chết đã bị nước cuốn trôi mất tích. Còn lại xác chết cuối cùng bị vướng ở bờ thác. Mọi người chặt cây làm quan tài bỏ xác chết đó vào, nhưng không ai khiêng nổi được cái quan tài đi chôn. Thế là người ta đành dựng đứng quan tài bên bờ thác. Bỗng dưng chiếc quan tài ấy biến thành đá, đứng sừng sững giữa dòng thác đến tận bây giờ. Đó chính là Thác Đứng ngày nay”.
- Hay quá! Hay quá! Kể nữa đi dâu.
Lũ nhỏ lại lao nhao. Ông hắng giọng rồi tiếp tục:
- Bây giờ dâu sẽ kể cho nghe truyền thuyết về trảng cỏ Bàu Lạch:
“Ngày xưa, cái vùng đất Bom Bo của người S’tiêng mình sinh sống rất rộng lớn. Một hôm, có hai anh em nhà tiên nọ ở trên trời mang những tấm đắp màu xanh mịn như nhung xuống phơi. Người em vốn chăm chỉ và mong làm xong việc sớm để nhanh chóng được trở về trời. Còn người anh ham chơi, không muốn làm gì cả. Thấy anh mình mãi ham chơi, người em vừa nhắc nhở vừa phụ giúp anh. Nhờ vậy mà tấm đắp cuối cùng của người anh cũng được phơi xong. Bỗng trời đổ mưa to. Người em nhanh nhẹn, chăm chỉ nên kịp thu gọn tất cả các tấm đắp đã khô của mình mang về trời. Còn người anh do lười biếng nên không kịp cuốn tấm đắp nào của mình cả. Những tấm đắp của người anh bị ướt và dính chặt vào đất, không gỡ ra được. Nơi những tấm đắp của người anh bị dính lại dưới đất chính là trảng cỏ Bàu Lạch bây giờ”...
***
Bình minh ửng hồng đung đưa trên vòm lá cọ. Con mèo đen hiền từ đang cuộn tròn dưới gốc, ngắm bầy chim nhỏ tung tăng. Đàn bướm chấp chới khoe những đôi cánh mỏng đủ màu sặc sỡ. Những bàn chân lam lũ đang len lỏi theo các ngả đường mòn dẫn lên nương rẫy. Ngày mới cũng bắt đầu với lũ trẻ từ những tiếng gọi nhau í ới, râm ran.
Điểu Lên vừa chuẩn bị sẵn sàng thì lũ bạn cũng vừa chạy tới. Điểu Lên chia phe rồi đứng vô hàng và nhanh chóng điều chỉnh đội hình của đội mình. Điểu Rê đứng đầu rồi đến Điểu Lết, Bơ Len, Điểu Lanh và cuối cùng là Điểu Lên. Đội bạn gồm Điểu Uông, Điểu Nhin, Thị Nết, Điểu Krú và Điểu Lơ. Điểu Xiêng đứng ở vạch chính giữa quan sát và giơ một tay lên cao. Khi thấy cả hai đội đã ở trong tư thế sẵn sàng rồi, Điểu Xiêng ra hiệu lệnh: “Chuẩn bị!” rồi hạ tay xuống một cách dứt khoát “Bắt đầu!”. Tất cả khuỳnh chân xuống, chu mông ra, tay trước, tay sau ghì chặt và cố kéo sợi dây thừng về phía đội mình. Mảnh vải xanh đọt chuối ở chính giữa sợi thừng cứ chạy qua chạy lại theo lực kéo của hai đội. Bơ Rơi hô hào lũ nhỏ còn cởi truồng đứng ngoài huơ tay múa chân, la hét om sòm. Trận đấu kéo dài mãi cho đến hồi gay cấn. Phần thắng đang nghiêng về đội Điểu Lơ thì bất ngờ Điểu Lên xoay một gối ra sau, hai tay ghìm chặt sợi thừng rồi lấy đà giật mạnh. Cả dây thừng và người bất ngờ ngã ngược về phía Điểu Lên. Vậy là dù thắng hay thua, đều kết thúc trò chơi bằng một trận cười lăn lóc giữa tiếng hò reo không ngớt.
Lũ trẻ giải tán sân chơi và chạy theo hướng con chó xù đang vừa ngoắc đuôi vừa mừng vui ư ử. Luồng bụi đỏ ngầu của buổi trưa cứ quấn quanh những đôi chân trần nhỏ xíu ra tận đầu ngõ rồi quay ngược lại theo ông già. Chúng bắt đầu khám phá sự hấp dẫn từ cái gùi của ông. Cái vị chua chua, ngòn ngọt, xốp, mềm, màu vàng đậm từ những trái xay cứ tan dần trong đầu lưỡi. Sự im lặng đợi chờ quen thuộc càng làm tăng vẻ lôi cuốn khi ông đi vào câu chuyện.
- Truyền thuyết kể rằng:
“Ngày xưa, khi loài người còn sống chung với các vị thần linh. Một ngày nọ, có chàng trai trẻ lên rừng đốn củi. Không biết nguyên cớ gì mà chàng ta lại tỏ thái độ bất kính với Thần Núi. Vậy là Thần Núi nổi trận lôi đình. Cả làng bị Thần Núi trừng phạt vì không lễ phép với ngài nên quanh năm suốt tháng không có một giọt mưa.
Vì thương mẹ nên hằng ngày Điểu Nhíp vào rừng hứng những giọt sương đậu trên lá rừng về cho mẹ uống và hái rau rừng về cho mẹ ăn. Trải qua những ngày dài như vậy nên nàng kiệt sức mà chết. Sau khi chết, nàng hóa thành một thứ cây rừng lá xanh mướt, đọt non màu tím đỏ đan xen dần màu xanh lục. Dân làng hái về ăn thử thấy ngon nên từ hôm đó họ dùng làm rau cho những bữa ăn hằng ngày. Ai ai cũng cảm phục tấm lòng hiếu thảo của nàng, nên lấy tên nàng đặt tên cho cây rau. Dần dần, rau Nhíp trở thành món ăn quen thuộc gần gũi với đời sống con người.” Đó chính là nguồn gốc của lá Nhíp ngày nay.
***
Ánh trăng tròn vành vạnh ngoài kia đã đứng bóng mà ông không tài nào ngủ được. Ông trầm ngâm suy nghĩ về lũ trẻ. Chúng như những món quà quý giá mà thần linh mang đến ban tặng cho ông. Bằng cách nào đó, chúng lần lượt đi qua đời ông với những sắc màu sống động của niềm tin, ánh sáng và nụ cười thơ ngây. Lũ trẻ ấy mỗi ngày một lớn lên theo những câu chuyện đan xen giữa các mùa mưa nắng, và đậm hương vị của vùng rừng núi hoang sơ. Rồi không biết tự bao giờ, thời gian dành cho những câu chuyện đã bắt đầu giãn cách dần ra. Có lẽ vì lũ trẻ đã biết hòa mình vào với những công việc của nương rẫy cùng dân sóc; cũng có thể vì ông đang bận bịu một công việc quan trọng mà lũ trẻ chưa hình dung ra được. Cuộc sống dường như gấp gáp hơn. Công việc cứ bận rộn theo ngày tất bật, còn nỗi lo lắng lại bám theo về nhà dưới màn đêm dày đặc. Cuộc sống của lũ trẻ rồi sẽ ra sao?