4. Bơ Rơi mới kịp tròng chiếc áo cổ chui qua đầu thì đã nghe tiếng Thị Nết gọi ngoài sân. Nó vừa vuốt mớ tóc bù xù vừa chạy ra theo. Thị Nết hơn nó đến sáu tuổi. Ở gần nhà nhau nên nó đã trở thành đứa bạn nhỏ của chị ấy từ lúc nào không biết nữa. Cối gạo nhà nó luôn có tiếng chày của chị ấy. Có món gì chị cũng cho nó ăn. Nó chỉ có hai anh trai, nên có chị nó thích ơi là thích. Vậy mà hôm nay nó thấy chị rất lạ. Nó tròn mắt nhìn chị như bị thôi miên. Chiếc váy dài được quấn ôm đến trên phần ngực, tạo thành một đường cong uốn lượn. Những sợi tóc mềm bị gió rẽ ra rồi phủ hờ lên một bên của đôi má ửng như màu nắng. Ánh mắt nâu đang chuyển động cùng với cỏ cây, hoa lá trước sân nhà. Cái miệng xinh như chiếc lá non màu tím đỏ. Chiếc vòng bạc lấp lánh trên cổ giữa đôi bờ vai trần mịn màng, âm ấm. Vùng ngực nhô cao rồi thắt lại giữa eo, sau đó cong vồng lên hai bên gò mông và cuối cùng là cặp bắp đùi săn chắc. Bên dưới những đường hoa văn sặc sỡ viền cạp váy, lồ lộ ra đôi bàn chân trần thiếu nữ. Còn nó, sao nhìn giống như que củi đựng trong một ống tre. Nó cười thích thú với những nhận xét đơn giản của nó. Thấy nó đứng ngẩn ngơ, Thị Nết giật tay gọi nó:
- Bơ Rơi, đi thôi.
Một chóe rượu cần, một ông già, mấy xiên thịt nướng cùng một lũ trẻ quây quanh. Điểu Rê ngồi dịch sang một bên cho hai chị em nó chen vào. Ở hai bếp kế bên, có mấy đứa nhỏ cũng đang gặm củ khoai chờ đợi. Ông già đưa tay kéo cái cần dài nhất, hút một hơi đến nỗi cái yết hầu trên cổ cứ chạy lên chạy xuống liên tục. Cái hương men lâng lâng ngây ngất của núi rừng bắt đầu thẩm thấu qua những đầu dây thần kinh vị giác, rồi tan dần vào từng tế bào của cơ thể. Cái vị ngọt, cay, thanh nồng chiếm hữu từ cổ họng rồi lan tỏa đến hơi thở, bờ môi. Ông ngẩng đầu lên, há miệng đẩy mạnh cái luồng hơi thú vị ấy ra một cách sảng khoái. Ông biết lũ trẻ sốt ruột nên không để chúng phải đợi lâu nữa.
- Loài người chúng ta cũng có nguồn gốc hẳn hoi đấy.
“Vào thuở xa xưa, khi trời và đất còn mờ mịt, các loài thú sống chen chúc và rất hòa thuận với nhau. Một hôm khi muông thú đang nô đùa bên một ngọn núi cao có nhiều tảng đá to, thì nghe phát ra một thứ tiếng thật kỳ lạ. Chúng như bị kích động vì sự hiếu kỳ nên đổ xô đi tìm và nghe ngóng. Cuối cùng, chúng xác định những tiếng động ấy phát ra từ một tảng đá to nhất ở đó. Theo lệnh của khỉ, tất cả các loài thú nhất loạt dùng các vật mà chúng có đập mạnh vào tảng đá. Bỗng một tiếng nổ lớn phát ra, trời đất tối sầm, cây cối đổ rạp, một số con vật chết ngay tức khắc. Sau tiếng nổ, trời quang mây tạnh, tảng đá vỡ ra, một người con trai và một người con gái nắm tay nhau bước ra ngoài. Đó chính là hai con người đầu tiên trên trái đất chúng ta…” .
- Ồ, lạ quá!
Những tiếng kinh ngạc từ mấy đứa nhỏ lao xao. Mấy đứa lớn chỉ lặng im theo dõi, thỉnh thoảng hút một hơi rượu từ cái cần trước mặt với ánh nhìn thích thú. Chúng như đang truyền cho nhau cái luồng sức mạnh vô biên từ nguồn gốc xuất thân của loài người trong chúng. Thị Nết ấn cái cần vào tay Bơ Rơi. Nó miễn cưỡng hút một hơi nhè nhẹ cái nước màu vàng nâu giống như mật ong ấy. Cái vị đăng đắng, cay cay, nồng nồng cứ chạy rần rần trong cơ thể khiến nó nổi gai ốc. Sau cái rùng mình, nhăn mặt, nó lại cảm thấy ngòn ngọt, thơm thơm. Nó gượng cười bối rối khi bắt gặp bấy nhiêu cặp mắt đang đổ dồn vào nó.
- Ngon không Bơ Rơi?
Nó thấy luồng khói thuốc khoanh tròn theo câu hỏi của dâu với một cái hất hàm về phía nó. Nó chẳng biết có ngon không nhưng vẫn gật đầu chúm chím. Xiên thịt nướng cũng vừa chuyền đến tay nó. Nó gỡ một miếng bỏ vào miệng nhai từ từ theo kiểu nhắm mồi rồi nuốt. Phải công nhận món này mới đúng là vừa thơm vừa ngon. Nếu ở nhà chắc nó phải ăn liền mấy xiên mới đã thèm. Bếp kế bên dậy mùi cá nướng. Nó liếc sang thì thấy Điểu Lên đang trở mấy con cá trên bếp. Còn lũ nhỏ đứa thì ngủ gật, đứa thì ngáp ngắn ngáp dài rồi cuối cùng cũng được đưa về đúng nơi nó ngủ. Đợi Điểu Lên đặt đĩa cá làm bằng ống tre ngay ngắn xuống rồi dâu tiếp tục:
- Câu chuyện xảy ra cách đây không lâu, cái năm mà mấy đứa cháu chưa sinh ra, nhưng dâu thì đã nghe thấy và đã từng chứng kiến:
“Xưa nay, người đồng bào chúng ta quen với cuộc sống tự nhiên của rừng núi và đoàn kết trong cộng đồng dân sóc. Bỗng dưng có một bọn người ngoại quốc mắt xanh, mũi lõ từ đâu tới. Chúng cướp đất, cướp nhà, vơ vét của cải; bắt đàn ông và trai làng khỏe mạnh làm lao dịch khổ sai; hãm hiếp đàn bà, con gái. Dân làng đói khát, bị chúng xua đuổi phải rời bỏ buôn làng, nương rẫy đi sâu vào chốn rừng thiêng nước độc để ẩn náu. Sự đau khổ khốn cùng mỗi ngày một chồng chất. Oán thù ngày càng sâu sắc, khiến những người cùng cực phải đứng lên đấu tranh chống lại chúng theo sự hướng dẫn của các tù trưởng, già làng. Trong số đó có một vị anh hùng nổi danh của vùng rừng núi Tây Nguyên tên là Nơ Trang Lơng, người dân tộc M’Nông. Chính là tù trưởng của làng Bu N’Trang, ông mang tài cao, đức rộng trải khắp buôn làng. Một ngày nọ, bọn người ngoại quốc kéo quân đến đột phá Bu N’Trang. Thằng Hen-ri Mét (Henri Maitre) xua quân cướp của, hãm hiếp phụ nữ và giết hại đồng bào. Vợ và con gái của tù trưởng Nơ Trang Lơng đã bị kẻ cướp có vũ trang bắt giữ, chặt đứt tay chân rồi đày đọa cho đến chết. Đau buồn, phẫn nộ trước thù nhà, nợ nước. Nơ Trang Lơng đã tập trung hơn 150 nghĩa quân tinh nhuệ đi nhổ đồn Busra và đánh sở chỉ huy của Pháp ở chân núi Namlyar, rồi phục kích các đoàn quân tiếp tế của Hăng-ri Mét. Sau thắng lợi khởi đầu đó, chiến công oanh liệt liên tiếp diễn ra ở vùng Tây Nguyên, Đông Nam Bộ làm cho thanh thế của nghĩa quân vang dội khắp miền. Đồng bào Bom Bo cũng tháp tùng, hưởng ứng cái khí thế sục sôi ấy để đứng lên chống lại sự đàn áp điên cuồng của bọn giặc Pháp…
Bọn người lạ ấy tới làng, phá tan sự bình yên của núi rừng. Đồng bào Bom Bo cũng quyết đánh đuổi chúng đi như đã từng đánh đuổi loài thú dữ. Chúng khiếp sợ bỏ đi, vì không biết ở bất kỳ lùm cây, bụi cỏ nào đã có sẵn cung tên, cạm bẫy chờ chúng. Nhưng rồi chúng quay lại, xúi giục đồng bào ta hãm hại nhau. Chúng dùng tiền, dùng muối, dùng uy quyền để mua chuộc các tù trưởng, già làng làm theo sự sai khiến của chúng. Rồi mỗi ngày qua đi với sự hoang mang, sợ hãi của dân làng khi thấy người đồng bào mình dắt bọn cướp bóc tới vơ vét của cải, phá hoại hoa màu. Chúng đến từng nhà thu thuế, bắt người, hãm hiếp, đánh đập dã man. Chúng cướp nương rẫy, cướp gỗ quý của rừng. Chúng bắt đồng bào đi làm đường, kéo gỗ, làm phu cho các đồn điền cao su. Đàn ông, trai tráng trong làng cứ vắng dần. Có người đi mãi không về. Cũng có người quay về nhưng đã bị chúng bào mòn hết sức lực. Ta cũng chống trả quyết liệt nhưng không ăn thua gì. Cuối cùng chỉ còn cách vừa chống trả, vừa trốn chạy. Quyết không đóng thuế, không đi phu, không làm tay sai cho giặc. Đồng bào ta được cây rừng che chở; đồi, suối cho cái ăn, cho nước uống. Cứ như thế mà vượt qua…
Năm ấy, có một đội vũ trang của Việt Minh về. Họ tuyên truyền để đồng bào hiểu rõ âm mưu xâm lược của giặc Pháp. Hiểu rõ được chính sách của Mặt trận Việt Minh. Hiểu được mục đích của sự đoàn kết là tạo nên một sức mạnh để cùng đứng lên đánh đuổi giặc Pháp, giành lại cuộc sống tự do của thôn sóc mình. Đồng bào Bom Bo đã chung tay nuôi dưỡng và chở che, đùm bọc cho cả đội. Nhưng vì bị lộ bí mật và giặc Pháp ráo riết truy tìm, nên đội vũ trang đã anh dũng chiến đấu đến hơi thở cuối cùng rồi hy sinh tất cả. Đó là hình ảnh đầu tiên của bộ đội Bok Hồ đã để lại, khiến đồng bào Bom Bo mình nhớ mãi…
Đuổi được thằng Pháp đi, thằng Mỹ lại lăm le xâm lược. Nó dựng nên một chính quyền tay sai (đó chính là ngụy quyền Sài Gòn). Nó cũng dùng người của ta để hãm hại đồng bào ta, còn độc ác, tàn bạo, nham hiểm gấp mấy lần thằng Pháp. Đấu tranh rồi lại đấu tranh. Bom Bo không còn bình yên như xưa nữa…”.
Ông lại rít một hơi thuốc thật dài như muốn nén vào lồng ngực những xót xa mà mình không thể nhồi nhét vào đầu lũ trẻ. Còn lũ trẻ thì nghe được những âm thanh rối bời đang chen chúc lách qua hai hàm răng khép kín và vòm mũi phập phồng của ông.
Nửa vầng trăng buồn tẻ dõi theo những bước chân thiếu vắng tiếng cười quen thuộc đang tách dần ra trên mỗi lối mòn. Bơ Rơi lững thững một mình thật chậm, nhưng hai người họ vẫn cứ thầm thì to nhỏ với nhau. Nó đợi, rồi chị ấy cũng đuổi kịp theo nó khi Điểu Rê rẽ vào nhà.
***
Bơ Rơi thức dậy thì cái nắng đã kín sân. Nó gặm nhanh trái bắp rồi chạy sang nhà Thị Nết. Không thấy ai ở nhà. Nó về, một mình mang đồ ra suối giặt. Đặt xá đồ đã giặt xong lên tảng đá. Nó nhảy ùm xuống dòng nước trong vắt rồi kỳ cọ. Nó thả lỏng người phơi mình trên mặt nước. Dòng nước mát cứ tự nhiên mơn man trườn lên người nó. Nó chợt nghe tiếng hòn sỏi lướt vèo trên mặt nước. Ngoảnh lại thì thấy Thị Nết đang ngồi trên tảng đá. Nó lội lên bờ rồi đến ngồi bên cạnh, im lặng không ai nói câu nào. Nó thấy cặp mắt nâu ấy đã chuyển sang màu đỏ. Hai mí mắt sưng bùm bụm trên đôi mi dày ươn ướt. Nó vụng về đặt bàn tay đen gầy lên vai Thị Nết.
- Khóc à, Nết?
- Vi2 Rê đi rồi.
- Đi đâu?
- Vô rừng.
“Vô rừng”. Nó đã nghe câu này từ lâu lắm rồi. Năm nó năm tuổi thì vớp3 cũng theo đàn ông, trai tráng trong làng vô rừng trú ẩn. May4 nói, vô rừng để trốn bọn giặc Pháp. Nếu không sẽ bị chúng bắt đi phu, lao dịch, khổ sai gì đó đến mấy mùa rẫy mới được về. Những ai bị bệnh không làm nổi thì bị chúng đánh đập dã man vì tội lười biếng, chống đối. Nhiều người không chịu đựng nổi cảnh làm việc quá sức, đói ăn và luôn bị bọn cai quản hành hạ nên đã bỏ trốn. Ai may mắn thì trốn thoát. Nếu không may bị chúng bắt được, chúng sẽ tra tấn cho đến chết. Sáu tuổi, nó không chỉ nghe mà chính nó cũng vô rừng. Cả làng trốn chạy vô rừng. Đói gạo, đói muối. Thú dữ và giặc cướp luôn là mối đe dọa khủng khiếp khiến người già, đàn bà và con trẻ hoang mang. Đàn ông, trai tráng lúc nào cũng xà gạc và cung, nỏ bên mình để vừa làm công cụ kiếm cái ăn, vừa chống lại thú dữ và bọn giặc tấn công. Chín tuổi, nó biết được trai làng vô rừng không phải chạy trốn mà là đi theo cách mạng.
- Vi Rê đi rồi sẽ về mà.
- Nết cũng muốn đi nhưng vi Rê không cho đi.
- Hay là mình đến nhờ dâu đi Nết. O5 cũng muốn đi.
- Bơ Rơi còn nhỏ lắm, không đi được đâu.
- Vậy Nết đợi o lớn rồi cùng đi nhé.
- Ừ, mình về thôi. - Thị Nết thấy Bơ Rơi buồn nên không nỡ từ chối, nhưng trong lòng đã có sẵn một quyết tâm.
Những câu chuyện về đêm vẫn quây quanh cái sạp tre dưới bồ lúa nhà Điểu Lên. Giọng kể của dâu cứ quyện vào khói thuốc, hương men, sâu lắng, bổng trầm như ngọn lửa lúc bốc cao, lúc hạ thấp, lúc tí tách liu riu, lúc bập bùng phần phật. Nó như một sức mạnh vô hình cứ cuốn hút lũ trẻ theo vòng xoay nóng bỏng của thời cuộc.
2. Vi: Anh (cách xưng hô của người S’tiêng).
3. Vớp: Cha
4. May: Mẹ
5. O: em